Siddhārtha Gautama hay Tất-đạt-đa Cồ-đàm (phiên âm Hán Việt từ tiếng Phạn) cũng được Phật tử gọi là Phật Thích-ca Mâu-ni (Shakyamuni Buddha)[1] hay gọi đơn giản là Đức Phật, là một người giác ngộ (trong Phật giáo) và là một đạo sư có thật từng sống vào thời kỳ Ấn Độ cổ đại. Theo tương truyền và sử liệu, ông đã sống và truyền dạy giáo lý ở phía đông tiểu lục địa Ấn Độ vào giữa thế kỷ thứ 6 và 4 TCN[2][3]. Siddhārtha đã đề xướng con đườngTrung đạo (Majjhimāpaṭipadā), vừa từ bỏ đời sống xa hoa và cũng vừa từ bỏ lối tu ép xác khổ hạnh thịnh hành trong các học thuyết tôn giáo Ấn Độ thời đó[4]. Những lời giáo pháp trong thời gian ông đi truyền bá đã đặt nền tảng cho sự hình thành của Phật giáo[1][3].
Siddhārtha Gautama được các Phật tử coi là một bậc đạo sư đã giác ngộ viên mãn và tự giải thoát hoàn toàn khỏi quy luật sinh tử luân hồi, hiểu rõ được sự vận hành của thế giới xung quanh, đồng thời truyền bá kinh nghiệm giác ngộ của mình cho người khác để họ có thể tự chấm dứt khổ đau bản thân, nhận sự hạnh phúc tối thượng. Chi tiết về cuộc đời, những lời dạy và các giới luật của ông được những học trò ghi nhớ và tổng hợp lại sau khi Siddhārtha Gautama qua đời. Hàng loạt những bản kinh ghi lại lời dạy của ông được lưu giữ qua truyền miệng và được viết thành sách 400 năm sau đó.
![]() Bức tranh minh họa Tất-đạt-đa Cồ-đàm đang ngồi thiền
|
|
Sinh | Siddhārtha Gautama (Tất-đạt-đa Cồ-đàm) khoảng năm 624 TCN Lumbini, nay thuộc Nepal |
---|---|
Mất | khoảng năm 543 TCN (80 tuổi) Kushinagar, nay thuộc Ấn Độ |
Dân tộc | Shakya |
Nổi tiếng vì | Người sáng lập ra Phật giáo |
Kế nhiệm | Phật Di Lặc |
Cha mẹ |
|
Cuộc đời
Bối cảnh và gia thế
Một bức tượng của Phật tại Sarnath, thế kỷ thứ 4Công Nguyên.
Đền thờ công chúa Da-du-đà-la.
Dù có nhiều hoài nghi và do dự trước đây, nhưng hầu hết các học giả đều công nhận ông đã sống và truyền dạy giáo lý trong thời Mahajanapada dưới thời cai trị của Tần Bà Sa La ( 558 – 491 TCN) và qua đời trong thời gian đầu của triều đại Ajatashatru (A xà thế), là người kế thừa của Tần Bà Sa La. Cuộc đời của Tất-đạt-đa không những trùng hợp với thời kỳ phát triển của Bà La Môn, mà còn trùng với sự phát triển của trường phái tu khổ hạnh Sramana như Kỳ Na giáo, Ājīvika, Ajñana, Cārvāka (triết học duy vật khoái lạc).
Tất-đạt-đa sinh khoảng năm 624 trước Công nguyên[5] và qua đời khi 80 tuổi (năm 543 TCN), trong một gia đình hoàng tộc thuộc dòng Thích-ca (sa. śākya) tại Kapilavastu (hv. Ca-tì-la-vệ, zh. 迦毘羅衛) thuộc Nepal ngày nay. Cha của ông là vua Tịnh Phạn (zh. 淨飯, sa. śuddhodana), mẹ là hoàng hậu Maya (sa., pi. māyādevī), sinh ra ông trong khu vực vườn Lumbini (hv. Lâm-Tỳ-Ni, zh. 嵐毘尼), một thị trấn thuộc Ấn Độ.
Cuộc sống ban đầu và hôn nhân
Ngay lúc sinh ra, ông đã có đầy đủ tướng tốt (Ba mươi hai tướng tốt). Do đó, các nhà tiên tri đều cho rằng ông sẽ trở thành một đại đế vĩ đại (Chuyển Luân Thánh Vương) hoặc là một thánh nhân xuất thế, một bậc giác ngộ tối thượng (Phật). Bảy ngày sau khi sinh thì hoàng hậu Maya – mẹ của ông mất, ông được người dì là Mahāprajāpatī(hv. Ma-ha-ba-xà-ba-đề, zh. 摩呵波闍波提) chăm sóc. Năm lên 16 tuổi, Tất-đạt-đa kết hôn với công chúaYaśodharā (hv. Da-du-đà-la, zh. 耶輸陀羅). Ông đã sống một cuộc sống thanh tịnh dù là một thái tử đến năm 29 tuổi cho đến khi bắt đầu lên đường tìm chân lý đích thực.
Vua cha Tịnh Phạn vốn muốn con ông nối nghiệp mình nên không muốn thái tử đi tu. Ông đã cho nhiều người danh tiếng dạy dỗ cho con rất kỹ lưỡng, nhất là không để ông tiếp xúc với cảnh khổ của cuộc đời. Tuy thế, do nhân duyên không thể tránh khỏi, sau bốn lần ra bốn cửa thành và thấy cảnh người già, người bệnh, người chết và một vị tu sĩ, thái tử phát tâm rồi từ biệt hoàng cung, sống cảnh không nhà. Tương truyền rằng, bốn cảnh ngộ vừa kể là những cảnh tượng do các vị người trời tạo ra nhằm nhắc nhở ông lên đường tu họcPhật quả. Tất-đạt-đa thấy rằng ba cảnh đầu tượng trưng cho cái Khổ trong thế gian và hình ảnh tu sĩ chính là cuộc đời của ông.
-
Giấc mơ thấy voi trắng vào bụng của Maya.
-
Hoàng hậu Maya trên xe ngựa ghé qua Lumbini.
-
Thái tử ra đời từ hông phải gần Lumbini.
-
Vua Tịnh Phạn và đoàn tùy tùng.
Xuất gia và giác ngộ
Năm 29 tuổi, sau khi công chúa Da-du-đà-la hạ sinh một bé trai – được đặt tên là La-hầu-la (zh. 羅睺羅, sa. rāhula) (nghĩa là Chướng ngại), Tất-đạt-đa quyết định từ bỏ cuộc sống xa hoa, lìa cung điện bất chấp nỗ lực ngăn cản của cha mình. Ông gọi người nô bộc trung thành là Channa (Sa Nặc) lấy con ngựa Kantaka (Kiền Trắc) rồi ra đi. Khi tới bờ sông Anomà, Thái tử dừng lại, bỏ ngựa, cạo râu, tóc, trao y phục và đồ trang sức cho Channa, lệnh cho Channa trở về.
Ông bắt đầu thử cùng tu khổ hạnh với nhiều nhóm tăng sĩ khác nhau. Ông quyết tâm tìm cách diệt khổ và tìm mọi đạo sư với các giáo pháp khác nhau. Theo truyền thống Ấn Độ bấy giờ chỉ có con đường khổ hạnh mới đưa đến đạt đạo. Các vị đạo sư khổ hạnh danh tiếng thời đó là A-la-la Ca-lam (阿羅邏迦藍, sa. ārāda kālāma, pi. āḷāra kālāma) và Ưu-đà-la La-ma tử (優陀羅羅摩子, sa. rudraka rāmaputra, pi. uddaka rāmaputta). Nơi A-la-la Ca-lam, Tất-đạt-đa nhanh chóng đạt đến cấpThiền Vô sở hữu xứ (sa. ākiṃcanyāyatana, pi. ākiñcaññāyatana), nơi Ưu-đà-la La-ma tử thì học đạt đến cấp Phi tưởng phi phi tưởng xứ (sa. naivasaṃjñā-nāsaṃñāyatana, pi. nevasaññā-nāsaññāyatana), đều là những trạng thái siêu việt của thiền định.
Nhưng Tất-đạt-đa cũng không tìm thấy nơi các vị đó lời giải cho thắc mắc của mình, chưa đạt đến mức độ triệt để cho việc giải thoát khổ đau, không phải là chân lý tối hậu, nên quyết tâm tự mình tìm đường giải thoát và có năm Tỳ-kheo (năm anh em Kiều Trần Như, sa. Koṇḍañña) đồng hành. Sau nhiều năm tu khổ hạnh gần kề cái chết, ông nhận ra đó không phải là phép tu dẫn đến giác ngộ, bắt đầu ăn uống bình thường, năm tỉ-khâu kia thất vọng bỏ đi. Cách tu cực khổ được Phật nhắc lại sau khi thành đạo như sau[6]:
- Này Aggivessana, rồi Ta tự suy nghĩ như sau: “Ta hãy giảm thiểu tối đa ăn uống, ăn ít từng giọt một, như súp đậu xanh, súp đậu đen hay súp đậu hạt hay súp đậu nhỏ.” Và này Aggivessana, trong khi Ta giảm thiểu tối đa sự ăn uống, ăn từng giọt một, như súp đậu xanh, xúp đậu đen hay súp đậu hột hay xúp đậu nhỏ, thân của Ta trở thành hết sức gầy yếu. Vì Ta ăn quá ít, tay chân Ta trở thành như những cọng cỏ hay những đốt cây leo khô héo; vì Ta ăn quá ít, bàn trôn của Ta trở thành như móng chân con lạc đà; vì Ta ăn quá ít, xương sống phô bày của Ta giống như một chuỗi banh; vì Ta ăn quá ít, các xương sườn gầy mòn của Ta giống như rui cột một nhà sàn hư nát; vì Ta ăn quá ít, nên con ngươi long lanh của Ta nằm sâu thẳm trong lỗ con mắt, giống như ánh nước long lanh nằm sâu thẳm trong một giếng nước thâm sâu; vì Ta ăn quá ít, da đầu Ta trở thành nhăn nhiu khô cằn như trái bí trắng và đắng bị cắt trước khi chín, bị cơn gió nóng làm cho nhăn nhíu khô cằn. Này Aggivessana, nếu Ta nghĩ: “Ta hãy rờ da bụng”, thì chính xương sống bị Ta nắm lấy. Nếu Ta nghĩ: “Ta hãy rờ xương sống”, thì chính da bụng bị Ta nắm lấy. Vì Ta ăn quá ít, nên này Aggivessana, da bụng của Ta đến bám chặt xương sống. Này Aggivessana, nếu Ta nghĩ: “Ta đi đại tiện, hay đi tiểu tiện” thì Ta ngã quỵ, úp mặt xuống đất, vì Ta ăn quá ít. Này Aggivessana, nếu Ta muốn xoa dịu thân Ta, lấy tay xoa bóp chân tay, thì này Aggivessana, trong khi Ta xoa bóp chân tay, các lông tóc hư mục rụng khỏi thân Ta, vì Ta ăn quá ít. Lại nữa, này Aggivessana, có người thấy vậy nói như sau: “Sa-môn Gotama có da đen.” Một số người nói như sau: “Sa-môn Gotama, da không đen, Sa-môn Gotama có da màu xám.” Một số người nói như sau: “Sa-môn Gotama da không đen, da không xám.” Một số người nói như sau: “Sa-môn Gotama da không đen, da không xám, Sa-môn Gotama có da màu vàng sẫm.” Cho đến mức độ như vậy, này Aggivessana, da của Ta vốn thanh tịnh, trong sáng bị hư hoại vì Ta ăn quá ít.”
Không đạt giải thoát với cách tu khổ hạnh, ông từ bỏ phép tu này. Quả quyết rằng mình đã đi đến chỗ cùng cực của công phu tu khổ hạnh và khổ hạnh không dẫn đến giác ngộ, ông tìm phương pháp khác, và nhớ lại một kinh nghiệm thời thơ ấu, lúc đang ngồi dưới gốc cây mận[6]:
- Này Aggivessana, rồi Ta suy nghĩ như sau: “Ta biết, trong khi phụ thân Ta, thuộc dòng Sakka (Thích-ca) đang cày và Ta đang ngồi dưới bóng mát cây diêm-phù-đề (pi. jambu), Ta li dục, li pháp bất thiện chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỉ lạc do li dục sinh, có tầm, có tứ.” Khi an trú như vậy, Ta nghĩ: “Đạo lộ này có thể đưa đến giác ngộ chăng?” Và này Aggivessana, tiếp theo ý niệm ấy, ý thức này khởi lên nơi Ta: “Đây là đạo lộ đưa đến giác ngộ.” Này Aggivessana, rồi Ta suy nghĩ: “Ta có sợ chăng lạc thụ này, một lạc thọ li dục, li pháp bất thiện?” Này Aggivessana, rồi Ta suy nghĩ: “Ta không sợ lạc thụ này, một lạc thọ li dục, li pháp bất thiện.”
Gốc bồ đề tại Bodhgaya này được cho là nơi Tất-đạt-đa Cồ-đàm đã ngồi thiền thành đạo.
Sau đó Tất-đạt-đa ăn uống bình thường trở lại, đến Giác Thành, ngồi dưới gốc một cây Bồ-đề ở Bồ Ðề Ðạo Tràng và nguyện sẽ nhập định không rời chỗ ngồi cho đến lúc tìm ra nguyên nhân và cơ chế của Khổ. Sau 49 ngày thiền định—mặc dù bị Ma vương quấy nhiễu bằng nhiều phương thức—Tất-đạt-đa đã đạt giác ngộ hoàn toàn ở tuổi 35. Từ thời điểm đó, Tất-đạt-đa biết mình là Phật, là một bậc Giác ngộ, và biết rằng mình sẽ không còn tái sinh một lần nào nữa. Kinh nghiệm giác ngộ của Phật được ghi lại như sau trong kinh sách theo chính lời của Tất-đạt-đa như sau[7]:
- “… Sau khi hoàn lại sinh lực (sau khi tu khổ hạnh vô ích), ta chú tâm giải thoát khỏi những tư tưởng tham ái, bất thiện và đạt được sơ thiền, sau đó nhị thiền, tam thiền và tứ thiền (Tứ thiền), nhưng những cảm giác hỉ lạc này không để lại dấu vết gì trong tâm ta.
- Khi tâm ta được an tịnh, thanh lọc, không bị dục vọng cấu uế, nhạy bén, chắc chắn, bất động, ta hướng nó về những ký ức và nhận thức về các kiếp trước. Ta nhớ lại nhiều tiền kiếp, một, hai, ba, bốn, năm,…, trăm ngàn kiếp trước, nhớ những chu kì của thế giới. ‘Nơi đó ta đã sống, tên của ta đã như thế, gia đình của ta là như thế, nghề nghiệp của ta, giai cấp xã hội của ta… Ta đã chết như vầy…’. Sự hiểu biết (sa. vidyā, pi. vijjā) đầu tiên này ta đã đạt được trong canh đầu [8]…
- Sau đó ta chú tâm đến sự sinh thành và hoại diệt của chúng sinh. Với con mắt của chư thiên, trong sáng, siêu việt mọi giới hạn nhân thế, ta thấy chúng sinh hình thành và tiêu hoại,…chúng sinh tái sinh theo nghiệp lực. Ta nhận ra rằng ‘Chúng sinh tạo nghiệp bất thiện qua ba ải thân khẩu ý đều chìm đắm sau khi chết, tái sinh trong đoạ xứ, địa ngục. Các chúng sinh nào tạo thiện nghiệp bằng thân khẩu ý được tái sinh trong thiện đạo, sau khi chết được lên cõi thiên’… Sự hiểu biết thứ hai này ta đã đạt được trong canh hai [9].
- Sau đó ta chú tâm nhận thức về sự tiêu diệt các lậu hoặc (漏, sa. āsrava, pi. āsava) và nhìn nhận như thật: ‘Đây là khổ, đây là nguyên nhân của khổ, đây là phương pháp tiêu diệt khổ, đây là con đường tiêu diệt khổ’, và khi ta nhận thức được điều này, tâm ta thoát khỏi dục vọng, ham muốn tồn tại, vô minh. Ta tự hiểu chân lý ‘Tái sinh ta đã đoạn, cuộc sống tu tập của ta đã hoàn tất, ta đã hoàn thành những gì phải làm. Cuộc sống (khổ đau) này ta đã vượt qua’… Sự hiểu biết thứ ba này ta đã đạt được trong canh ba [10]…”.
Ông lúc đó biết rằng kinh nghiệm giác ngộ của mình không thể dùng ngôn từ hay bất cứ một cách nào khác để truyền đạt cũng như ông thấy con người đã bị áp đảo bởi vô minh, tham lam và thù hận nên họ rất khó có thể nhận ra “con đường”, vốn rất sâu sắc và khó nắm bắt nên ông tiếp tục yên lặng ngồi quán chiếu tâm chúng sinh dưới gốc cây Bồ-đề một thời gian. Cuối cùng, được sự thỉnh cầu, với lòng thương yêu chúng sinh, ông chấm dứt sự yên lặng và quyết định chuyển Pháp luân, dựa vào căn cơ của chúng sinh thuyết Pháp cứu độ. Từ đó ông có danh hiệu Thích-ca Mâu-ni — “Trí giả của dòng dõi Thích-ca“.
Thành lập tăng đoàn và truyền giảng giáo lý
Sau khi giác ngộ, Tất-đạt-đa có ý định gặp 2 vị thầy cũ của mình là Alara Kalama và Uddaka Ramaputta, nhưng cả hai vị đều đã qua đời cách đây không lâu. Ông lại thấy năm người bạn đồng tu xưa kia của mình đang ở tại vườn Nai gần Benarès và truyền dạy giáo lý của mình cho họ. Tất cả năm vị sau đó đều trở thành A-la-hán. Sự kiện này diễn ra vào một ngày trăng rằm, đúng hai tháng sau khi Tất-đạt-đa thành đạo.
Ông bắt đầu giảng pháp bằng cách trình bày con đường dẫn đến kinh nghiệm giác ngộ và giải thoát. Trên cơ sở kinh nghiệm giác ngộ của mình, ông đã giảng Tứ diệu đế, Bát chính đạo, Vô ngã, Vô thường, Luân hồi, Duyên khởi, quy luật Nhân quả (Nghiệp) và nhiều bài pháp khác mở rộng phù hợp với căn cơ của nhiều người. Tại vườn Lộc Uyển ở Sarnath gần Ba-la-nại (Benares hay còn gọi là Varanasi), ông bắt đầu những bài giảng đầu tiên, gọi là “Chuyển Pháp luân”. Ông đi nhiều nơi, nhiều vùng miền ở lục địa Ấn Độ, giảng giải giáo pháp và điều này diễn ra liên tục từ năm này qua năm khác.
Ông hay lưu trú tại Vương-xá (zh. 王舍城, sa. rājagṛha), Xá-vệ (zh. 舍衛城, sa. sāvatthī) và Phệ-xá-li (zh. 吠舍釐, sa. vaiśālī), sống bằng khất thực, không nhà ở cố định. Thông qua những lời dạy của mình về phương pháp đem lại an lạc, hạnh phúc cho chúng sinh, Tất-đạt-đa đã dần dần gây dựng được một đội ngũ đệ tử lớn gồm 4 thành phần: tỳ-kheo (nam tu sĩ), tỳ-kheo-ni (nữ tu sĩ), ưu-bà-tắc (nam cư sĩ), ưu-bà-di (nữ cư sĩ). Trong hàng đệ tử tại gia của ông có những nhân vật quyền thế như vua Tần-bà-sa-la (zh. 頻婆娑羅, sa. bimbisāra) và vương hậu Vi-đề-hi (Vaideli) của xứ Ma-kiệt-đà, vua Ba-tư-nặc và vương hậu Mạt-lợi (Mallika) nước Kiều-tát-la. Chính Vua Tần-bà-sa-la đã dâng cung cho Tăng đoàn ngôi tu viện đầu tiên trong lịch sử Phật giáo, đó là Tịnh xá Trúc Lâm (Veluvana) tại kinh đô Vương-xá. Ngoài ra trưởng giả Cấp Cô Độc, một thương gia giàu có ở kinh thành Xá-vệ, cũng cúng dường cho giáo đoàn của Phật Thích-ca cũng được một ngôi tịnh xá trong khu vườn của Thái tử Kỳ-đà tại Xá-vệ, được kinh điển gọi là tịnh xá Kỳ Viên (Jetavana). Kinh Phật cho biết Cấp Cô Độc đã lót vàng khắp sân vườn để mua lại nó từ tay Thái tử Kỳ-đà, con trai quốc vương Ba-tư-nặc. Các đệ tử quan trọng của ông là A-nan-đà, Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên, Ma-ha-ca-diếp, A-na-luật và Phú-lâu-na. Cũng trong thời gian này, đoàn Tỉ-khâu-ni (sa. bhikṣuṇī) được thành lập do di mẫu của Tất-đạt-đa là bà Ma-ha-ba-xà-ba-đề làm ni trưởng.
Cuộc đời ông cũng gặp nhiều người xấu muốn ám hại. Trong số đó, có Đề-bà-đạt-đa là người em họ, muốn giành quyền thống lĩnh Tăng-già, nên rắp tâm tìm cách giết hại ông nhiều lần nhưng không thành. Tuy thế Đề-bà-đạt-đa đã chia rẽ được một số thành viên khỏi Tăng-già ở Phệ-xá-li. Tất-đạt-đa đi con đường trung đạo và tùy thuận chúng sinh, ngược lại Đề-bà-đạt-đa chủ trương một cuộc sống khổ hạnh cực đoan.
Qua đời
Trong kinh điển Pali, Tất-đạt-đa sống thọ được 80 tuổi. Tuy trải qua suốt phần đời còn lại – 45 năm đi giảng dạy (có tài liệu nói là 49 năm), nhưng ông lại tuyên bốNhư Lai chưa từng nói lời nào, bởi tất cả lời dạy của Như Lai vốn đã là chân lý từ muôn thuở, bất chấp sự tồn tại của chúng sinh hay Phật. Lời dạy cuối cùng của ông là: “Tất cả các pháp hữu vi đều vô thường, chịu biến hoại, hãy tinh tiến tu học (để đạt giải thoát)!”. Theo kinh Đại bát-niết-bàn (pi. mahāparinibbāna-sutta), ôngqua đời tại thành phố Câu-thi-na (zh. 拘尸那, sa. kuṣinagara) của bộ tộc Malla vào năm 486 (hay 483 trước Công nguyên). Trước đó sức khoẻ của ông đã trở nên rất yếu sau khi dùng bữa cúng dường tại nhà thí chủ Thuần-đà (zh. 純陀, pi. cunda), tuy nhiên sau đó ông có nhấn mạnh cho tôn giả A-nan-đà hiểu là Tăng chúng không nên khiển trách, người thợ rèn đó đã có thiện ý tối thượng.
Trước khi qua đời, Tất-đạt-đa tạo điều kiện cho các tỳ-kheo cơ hội cuối cùng để chất vấn hay hỏi đáp nếu như có những vấn đề hay những điểm nào còn chưa sáng tỏ có thể đưa đến các kiến giải khác nhau về sau, tuy nhiên các vị này đã im lặng.
Theo các Phật tử, ông đã nhập Niết-bàn thông qua các mức thiền định, một trạng thái giải thoát hoàn toàn khổ đau của cuộc sống. Theo truyền thuyết Pali thì ông mất vào ngày rằm tháng tư, còn văn bản Phạn ngữ chép ngày mất của ông là ngày rằm tháng 11. Trong buổi hoả thiêu xác của Tất-đạt-đa có nhiều hiện tượng lạ xảy ra.
Mặc dù cuộc đời Tất-đạt-đa có nhiều huyền thoại bao phủ nhưng các nhà khảo cổ học và nhân chủng học – vốn hay có nhiều hoài nghi và thành kiến – cũng đều nhất trí công nhận ông là một nhân vật lịch sử và là người đã thành lập ra Phật giáo.
Di tích
Sau khi qua đời, Xá lợi của Tất-đạt-đa Cồ-đàm được chia thành 8 phần. Nhiều thế kỷ sau đó, vua Ashoka (A-dục) đã đem đi cho xây cất và tôn thờ thành 84.000 tháp.
Ngoại hình
Có nhiều miêu tả về ngoại hình của Tất-đạt-đa trong các kinh điển Phật giáo. Là một vị hoàng tử có đầy đủ 32 tướng tốt, ông đã được tập huấn, rèn luyện sức mạnh, được nuôi dạy rất chu đáo về cả văn lẫn võ. Từ năm 13 tuổi ông được truyền thụ võ nghệ và có sở trường bắn cung. Từ lúc trước khi ra đi tìm đạo, ông đã là người có cơ thể cường tráng, phi phàm hơn người.
Một người Bà la môn Sonadanda miêu tả ngoại hình ông là “đẹp trai, ưa nhìn, cùng với một làn da rất đẹp. Ông ta có vẻ ngoài thần thái và oai nghiêm…”
Ngài đẹp đẽ, xinh tươi, dễ nhìn, một hình sắc tốt đẹp nhất, hình thể và nét trang nghiêm của ngài như Brahma, ngoại hình của Ngài đẹp đẽ (Digha Nikaya, Kinh số 4).
Ngài đẹp đẽ, gây được niềm tin, với ý thức điềm tĩnh và tâm trí thanh tịnh, trầm tĩnh và tự chủ, như một con voi được thuần phục một cách hoàn hảo (Anguttara Nikaya, Kinh số 36).
Có những đệ tử của ông đang trong quá trình tu tập chưa trở thành A la hán, bị mê hoặc bởi vẻ ngoài của ông, nhưng đã được ông khuyên chấm dứt việc đó, và nhắc nhở rằng không nên nhìn ông bằng hình tướng bên ngoài, mà nên nhìn vào giáo pháp của ông truyền dạy thì mới thấy được một Như Lai chân thật. Trong kinh Kim cang có bài kệ: “Nhược dĩ sắc kiến ngã, dĩ âm thanh cầu ngã, thị nhân hành tà đạo, bất năng kiến Như Lai”, tức là nếu dùng sắc thấy Ta, dùng âm thanh cầu Ta, người đó hành đạo tà, không thể thấy Như Lai.
Không có một tác phẩm, văn bản nào miêu tả rõ ngoại hình Tất-đạt-đa Cồ-đàm dưới dạng con người cho đến khoảng thế kỷ thứ 1 TCN, sau thời gian đó thì mới bắt đầu có những mô tả về hình dáng được cho là của ông trong Kinh Lakkhaṇa Sutta. Ngoài ra, Yasodhara mô tả sơ lược hình dáng của Tất-đạt-đa Cồ-đàm sau khi ông lần đầu tiên trở lại cung điện của mình trong kinh điển Pali, Narasīha Gāthā.
Trong 32 tướng tốt, nhiều người nói rằng ông có đôi mắt xanh biếc.
Nhận định
“ | Đức Phật là hiện thân của tất cả các đức tính mà ngài giảng dạy. Trong suốt 45 năm hoằng pháp đầy ý nghĩa và thành công, đức Phật đã biến lời nói của ngài thành hành động. Hệ thống đạo đức được Phật giảng dạy là hoàn hảo nhất trong lịch sử thế giới. | ” |
— Max Muller
|
“ | Tôi tin chắc là đường lối tu hành mà Đức Phật đã chỉ ra cho chúng ta là đường lối duy nhất mà nhân loại phải làm theo nếu muốn thoát khỏi tai họa. | ” |
— Jawaharlal Nehru
|
“ | …Nếu có bất kỳ tôn giáo nào mà có thể thỏa mãn những nhu cầu của khoa học hiện đại thì tôn giáo đó chính là Phật giáo. | ” |
— Albert Einstein
|
“ | Toàn thể nhân loại đã sản sinh ra chỉ một người như thế, với triết lý cao siêu như thế, với lòng từ bi mở rộng như thế. Một triết gia vĩ đại, thuyết giảng triết lý cao siêu bậc nhất, mà vẫn có lòng từ bi sâu thẳm nhất cho những loài vật nhỏ nhoi, và không bao giờ tự nâng mình lên. Đức Phật là KarmaYogi lý tưởng, làm việc hoàn toàn bất vụ lợi, và lịch sử nhân loại đã chứng tỏ rằng Đức Phật là bậc vĩ nhân vĩ đại nhất từng được sanh ra, không thể nào so sánh, sự kết hợp hài hòa nhất giữa khối óc và trái tim đã từng tồn tại. | ” |
— Svāmī Vivekānanda
|
“ | Trên hành tinh này, Đức Phật đã thuyết giảng những sự thật của nền đạo đức nâng cao và có giá trị vĩnh viễn không chỉ ở người Ấn độ thôi mà cũng ở nhân loại. Đức Phật đã là một trong những thiên tài có đạo đức bậc nhất đã từng được ban tặng vào thế gian này. | ” |
— Albert Schweitzer
|
Các danh xưng khác của Tất-đạt-đa Cồ-đàm (Thập hiệu)
- Như Lai (zh. 如來, sa., pi. tathāgata), là “Người đã đến như thế” hoặc “Người đã đến từ cõi Chân như”. Phật giáo Mật Tông còn gọi là “Tỳ Lô Giá Na”, dịch ý nghĩa là “Đại Nhật Như Lai”. Theo tiếng Phạn, “Tỳ Lô Giá Na” là tên gọi khác của Mặt Trời. Dùng danh hiệu “Tỳ Lô Giá Na” có nghĩa coi Tất-đạt-đa Cồ-đàm là Mặt Trời hồng không bao giờ tắt; tuệ giác của ông như Mặt Trời soi sáng khắp thế gian, xóa tan đêm tối vô minh.
- Ứng Cúng (zh. 阿羅漢, sa. arhat, pi. arahant), dịch nghĩa là A La Hán (zh. 應供), là “Người đáng được cúng dường”, đáng được tôn kính.
- Chính Biến Tri (zh. 正遍知, sa. samyaksaṃbuddha), dịch theo âm là Tam-miệu-tam-phật-đà (zh. 三藐三佛陀), là “Người hiểu biết đúng tất cả các pháp”.
- Minh Hạnh Túc (zh. 明行足, sa. vidyācaraṇasaṃpanna), nghĩa là “Người có đủ trí huệ và đức hạnh”, tức là có đầy đủ tam minh (Túc Mạng Minh, Thiên Nhãn Minh, Lậu Tận Minh) và ngũ hạnh (Thánh Hạnh, Phạm Hạnh, Thiên Hạnh, Anh Nhi Hạnh, Bệnh Hạnh).
- Thiện Thệ (zh. 善逝, sa. sugata), là “Người đã đi một cách tốt đẹp”
- Thế Gian Giải (zh. 世間解, sa. lokavid), là “Người đã thấu hiểu thế giới”
- Vô Thượng sĩ (zh. 無上士, sa. anuttarapuruṣa), là “Đấng tối cao, không ai hơn”
- Điều Ngự Trượng Phu (zh. 調御大丈夫, sa. puruṣadamyasārathi), nghĩa là “Người đã chế ngự được bản ngã và nhân loại”. Điều Ngự Trượng Phu còn một nghĩa khác nữa là Tất-đạt-đa Cồ-đàm có khả năng điều phục những người hiền và ngự phục những kẻ ác theo về chính đạo.
- Thiên Nhân Sư (zh. 天人師, sa. devamanuṣyānāṃ śāstṛ), là “Bậc thầy của cõi người và cõi trời”
- Phật Thế Tôn (zh. 佛世尊, sa. buddhalokanātha, buddhalokajyeṣṭha, bhagavān), là “Bậc giác ngộ được thế gian tôn kính”
Hình ảnh của Tất-đạt-đa Cồ-đàm trong các tôn giáo khác trên thế giới
Nhiều người theo Ấn Độ giáo cho rằng Tất-đạt-đa Cồ-đàm là hóa thân thứ 9 của thần Vishnu. Tuy nhiên qua các lời dạy của ông thì tất cả đều đi ngược lại giáo điều tôn giáo của họ, điển hình là phủ nhận quyền năng của Vedas và phủ nhận sự tồn tại của Ngã, linh hồn trường tồn, bất biến (Atman) nên chi tiết này có lẽ là do họ thêm bớt.
Tất-đạt-đa Cồ-đàm được một giáo phái Hồi giáo Ahmadiyya coi như là một nhà tiên tri. Một số tín đồ Phật giáo Trung Quốc thời sơ khai từng nghĩ Tất-đạt-đa Cồ-đàm là hóa thân của Lão Tử trong Đạo giáo.
Các tín đồ của Đạo Cao Đài tôn thờ ông như một bậc thầy tôn giáo lớn của họ. Hình ảnh của Tất-đạt-đa Cồ-đàm có thể được tìm thấy trong cả Tòa Thánh và trên bàn thờ ở nhà. Ông cũng được họ cho là có mối liên hệ với những người sáng lập tôn giáo lớn khác như Jesus, Lão Tử hoặc Khổng Tử.
Kể từ thời kỳ Nara ở Nhật Bản, thuyết “bản địa thùy tích” được khởi xướng với quan điểm rằng các vị thần của Nhật Bản thực tế là hóa thân của Phật, và người ta đã xác định “nguồn gốc Phật” của nhiều vị thần và tạo tác các tượng thần dưới hình dáng tăng lữ.
Câu chuyện của hai vị thánh – Barlaam và Josaphat trong Thiên Chúa giáo đã được “Công giáo hóa” từ chính câu chuyên thật của cuộc đời Tất-đạt-đa Cồ-đàm, được dịch ra từ tiếng Ấn sang tiếng Ba Tư rồi sang Tiếng Ả- rập để cuối cùng chuyển ngữ thành tiếng Hy Lạp.
Trong giáo phái Gnostic cổ Mani giáo, Tất-đạt-đa Cồ-đàm được cho là một trong số những vị thầy giảng đạo của Đức Chúa Trời trước khi Mani xuất hiện.
Tất-đạt-đa Cồ-đàm trong nghệ thuật và điện ảnh
Phim
- Little Buddha, bộ phim của Bernado Bertolucci năm 1994
- Prem Sanyas, bộ phim câm 1925, đạo diễn bởi Franz Ostenn và Himansu Rai
- Con đường giác ngộ, bộ phim nhựa Việt Nam do Công Hậu làm đạo diễn. Phim được chùa Hoằng Pháp (huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh) và Công ty Nghiệp Thắng sản xuất vào năm 2013. Diễn viên Tuấn Phương diễn vai Đức Phật. Ngày 8 tháng 6 năm 2014, phim đạt Giải nhất trong Liên hoan phim Vesak, được tiến hành nhân dịp Đại lễ Phật đản Liên Hợp Quốc Vesak lần thứ 11 ở Việt Nam với sự tham dự của 95 quốc gia.
- Buddha, phim hoạt hình anime do Toei sản xuất.
Phim truyền hình
- Buddha, phim truyền hình lịch sử của Ấn Độ năm 2013, do diễn viên Himanshu Soni đảm nhận vai Tất-đạt-đa Cồ-đàm.
Văn học
- The Light of Asia, một bài thơ sử thi của Edwin Arnold năm 1879.
- Buddha, một loạt truyện manga từ 1972-1983 của Osamu Tenzuka.
- Tất Đạt Đa, bộ tiểu thuyết của Hermann Hesse, viết bằng tiếng Đức vào năm 1922.
- Lord of Light, một cuốn tiểu thuyết của Roger Zelazny, nói về một con người trong tương lai xa ở Trái Đất, sẽ dùng Phật pháp để giảng dạy con người, chống đối lại các vị thần.
Âm nhạc
- Karuna Nadee, một vở kịch diễn xướng của Dinesh Subasinghe năm 2010.
- Ánh sáng Á Châu, một vở kịch diễn xướng của Dubley Buck năm 1886.