Vào tháng 2 âm lịch hàng năm, các nghệ nhân kim hoàn, những người kinh doanh vàng lại nô nức với ngày giỗ tổ như một hoạt động đầy ý nghĩa: uống nước nhớ nguồn. Theo sử sách lưu lại, người có công khai sáng nghề kim hoàn Việt chính là hai vị tổ sư họ Cao: Cao Đình Độ và Cao Đình Hương.
Ông Cao Đình Độ sinh năm 1744 tại làng Cẩm Tú, huyện Cẩm Thủy, tỉnh Thanh Hóa. Ngay từ nhỏ, ông rất ham học và được truyền thụ nền giáo dục của đạo Nho. Lớn lên ông làm nghề bịt đồng nhưng không nguôi niềm đam mê lớn trong ông là trở thành một người thợ kim hoàn xuất sắc. Để học được nghề, ông phải cải trang người Hoa xin vào giúp việc cho một chủ tiệm vàng ở Thăng Long (Hà Nội). Tính hiếu học và lòng trung thực của ông khiến chủ tiệm kim hoàn người Hoa cảm động, quý mến và truyền nghề cho ông. Với ý chí phải học cho thành tài, ông học cả cách chế tạo dụng cụ cần thiết của nghề chạm trổ vàng bạc và không từ chối bất cứ việc gì chủ sai bảo. Công sức của ông đã được đền đáp xứng đáng, tay nghề ông ngày càng thành thạo và đạt trình độ kỹ thuật tinh xảo đủ sức tranh tài với những thợ kim hoàn người Hoa khác tại đất Thăng Long thời bấy giờ.
Năm 1783, Ông đưa vợ con vào làng Kế Môn, huyện Phong Điền, Thuận Hóa lập nghiệp và truyền nghề cho con. Thừa hưởng đức tính thông minh của cha, cong trai ông – Cao Đình Hương, tiếp thu nghề kim hoàn một cách nhanh chóng và trở thành một nghệ nhân thành thục trong nghề. Tại Thuận Hóa, Ông Cao Đình Độ có thu nhận để tử, truyền nghề cho họ. Làng Kế Môn trở thành làng nghề kim hoàn từ đó.
Dưới thời vua Quang Trung, danh tiếng Ông Cao Đình Độ được lan truyền đến triều đình. Năm 1790, vua Quang Trung triệu hai cha con ông cùng một số thợ bạc ở làng Kế Môn vào triều để lập cơ vệ Ngân Tượng, nơi chuyên nghiên cứu nghệ thuật điêu khắc, chạm trổ vàng bạc và đồ trang sức cung điện. Trước công đức và những đóng góp lớn lao đó, ông được triều đình phong chức Lãnh Binh, cùng gia đình sống tại làng Cao Hậu, huyện Hương Trà.
Đến khi Nguyễn Ánh lập nên triều Nguyễn, hai cha con ông Cao Đình Độ và Cao Đình Hương cũng như nhóm thợ làng Kế Môn vẫn được vua Gia Long trọng dụng, cấp bổng lộc và giữ nguyên tước cũ để tiếp tục nghề kim hoàn trong cung điện.
Năm 1810, Ông Cao Đình Độ qua đời, hưởng thọ 66 tuổi. Bằng cách nhìn nhạy bén của người trong nghề, Cao Đình Hương nhìn thấy hoài bão của cha mình sẽ bị mai một theo thời gian, không những thế, nghề kim hoàn sẽ bị thất truyền nếu ông chỉ quanh quẩn phục vụ trong cung vua. Ông quyết định từ quan về nhà để tìm người nối nghiệp gia đình. Nghề kim hoàn ở miền Trung từ đó mà được nhân rộng.
Cảm phục tài nghệ và danh tiếng Cao Đình Hương, quan Thượng thư bộ Lại lúc bấy giờ là Trần Minh, cùng vợ là Huỳnh Thị Ngọc (dưới thời Gia Long) mời ông về dinh phủ dạy nghề kim hoàn cho ba người con trai: Trần Hòa, Trần Điện, Trần Điền và ba người cháu: Huỳnh Quang, Huỳnh Bảo, Huỳnh Nhật. Ròng rã suốt 11 năm truyền dạy cho các học trò, năm 1821, Ông Cao Đình Hương qua đời. Trước khi mất, tâm huyết sau cùng của ông là mong muốn học trò của mình đem nghề kim hoàn truyền bá rộng rãi trong dân gian.
Theo di chúc của thầy, ba anh em Trần Hòa, Trần Điện, Trần Điền ngược ra Thăng Long (Hà Nội) mở lò thu nhận đệ tử. Riêng anh em họ Huỳnh theo dòng người lập nghiệp xuôi vào phương Nam, đến Phan Thiết thì dừng chân, vừa thu nhận đệ tử truyền nghề, vừa để tưởng nhớ một người anh em của mình đã qua đời tại đây. Nghề kim hoàn ở Phan Thiết được khai sinh từ đó.
Tiêu bản, sắc bản tổ nghề kim hoàn
Ở miền Nam, nghề kim hoàn lúc ấy vẫn chưa được phổ biến rộng rãi. Theo ước nguyện của thầy, từ Thăng Long, anh em họ Trần bắt đầu cuộc hành trình xuôi vào Phương Nam. “Đất lành chim đậu”, điểm dừng chân của họ là Gia Định – Chợ Lớn, nơi có thương cảng sầm uất, hội tụ thương hồ từ các tỉnh lân cận, kể từ Cao Miên (Campuchia), Xiêm La (Thái Lan), đến buôn bán náo nhiệt. Ba ông chọn địa điểm cách Chợ Lớn khoảng một dặm (cảng Bình Đông ngày nay) mở lò thợ bạc tại đây lại có điều kiện phát triển rộng khắp.
Sau khi truyền nghề cho 36 lò thợ bạc ở Chợ Lớn, anh em họ Trần lại tiếp tục hành trình đến các tỉnh miền Tây, ngược qua Campuchia, Thái Lan… rồi qua đời ở đâu không ai biết. Nếu như tiền tổ họ Cao có công khai sáng nghề Kim Hoàn, thì họ Trần, Huỳnh chính là những người có công phổ biến nghề Kim Hoàn trên khắp đất nước, suốt từ Bắc vào Nam. Họ được người trong nghề tôn vinh là tổ sư đời thứ Hai của ngành kim hoàn Việt Nam.
Để tưởng nhớ công lao to lớn của hai vị Tổ nghiệp, hằng năm, các thợ kim hoàn miền Trung (Huế) tổ chức lễ giỗ tổ Ông Cao Đình Độ vào ngày 27-2 (âm lịch). Tại làng Định Công (Hà Nội), giỗ tổ sư họ Trần, Phan Thiết giỗ tổ sư họ Huỳnh.
Dù ngày nay, nữ trang vàng bạc được sản xuất chủ yếu trên dây chuyền hiện đại, nhưng tổ thờ vẫn được coi trọng và tôn thờ
Làng nghề kim hoàn Kế Môn (Thừa Thiên Huế)
Cách trung tâm thành phố Huế khoảng 40km về phía Đông Bắc là làng Kế Môn, xã Điền Môn, huyện Phong Điền. Nơi đây được xem như cái nôi nghề kim hoàn Việt Nam
Cái nôi của nghề vàng
Theo sử sách xưa còn ghi lại thì làng Kế Môn được thành lập vào thế kỉ 14 dưới đời vua Trần Anh Tông, làng Kế Môn nằm bên phá Tam Giang lại có đất nông nghiệp nên cư dân ở đây sống chủ yếu bằng nghề nông và đánh bắt cá.
Năm 1789, sau khi đại phá quân Thanh vua Quang Trung đặt kinh đô tại Phú Xuân – Huế và ra lời kêu gọi người tài giúp vua quản lý đất nước. Ông Cao Đình Độ là người Thanh Hóa vào Huế xin làm nghề Kim hoàn khi đi qua sông Ô Lâu thì cả gia đình bị nạn, người dân Kế Môn thấy thế cứu giúp nên mới thoát chết. Để tưởng nhớ công ơn cứu mạng của người dân làng kế Môn nên sau khi vào cung ông Độ đã trở về và dạy nghề cho người dân ở đây.


Không những thế người làng Kế Môn còn đưa nghề truyền thống của mình vươn ra khắp thế giới nhằm quảng bá cho quê hương đất nước, hiện tại tiểu bang Texas của Mỹ có 40 cơ sở cầm vàng của người Kế Môn. Tại Huế các sản phẩm kim hoàn được trưng bày tại “Tịnh Tâm Kim Cổ”, trong các đợt Festival nghề truyền thống của Huế người làng Kế Môn đều tham dự. Làng Kế Môn có nhiều nhà thờ họ với tất cả 16 nhà thờ, đây là những họ đã có công mở làng cũng như phát triển nghề kim hoàn.
Ngày nay, dù con dân Kế Môn đã tỏa đi xa nhưng có lẽ Huế mới thật sự là cái nôi bậc nhất cho nghề kim hoàn phát triển khi còn giữ được dấu ấn lịch sử của một thời vang bóng. Ngoài khu mộ tổ và nhà thờ tổ kim hoàn vẫn còn lưu giữ ở đất Thần Kinh thì cũng chỉ có đến Huế du khách mới có cơ hội trực tiếp chứng kiến hoặc tham gia các công đoạn sản xuất của nghề kim hoàn truyền thống. Để tưởng nhớ và tôn vinh nghề kim hoàn, cụ đồ An có viết bài thơ “Tặng người thợ bạc” treo kỷ niệm tại Từ đường nhà thờ tổ.
Ngày ngày luyến tiếp khách hàng sang
Dát hàn theo thế hình long hổ
Đầu chạm làm nên cảnh phụng loan
Lắm thuở cầm cung day mũi bạc
Từng phen lên ngựa trửi ngàn vàng
Rao tài bủa vớt oai lừng lẩy
Nghề nghiệp lâu dài vững đặc san”
Nếu như trước đây để đến làng Kế Môn phải đi đò, đi xe ròng rã thì nay đường làng đã được lót đan thẳng tắp, xe hơi vào đến nhà thật tiện lợi.
Vùng đất này càng được thay da đổi thịt với sự chung tay đóng góp từ những người con xa quê. Đó là Trung tâm thương mại Điền Môn nơi được xem là chợ làng lớn nhất nước do ông Hồ Huệ – một người con làng Kế Môn – đã đứng ra quyên góp và vận động để xây dựng. Đó là con đường Nguyễn Thanh Côn do ông Nguyễn Thanh Côn (người làng Kế Môn, làm vàng bên Mỹ) gửi về gần 500 triệu đồng để đổ bê tông con đường dài 2,4 km, nơi đây cũng là con đường đặc biệt nhất tại Việt Nam vì có đến 16 nhà thờ họ khang trang, bề thế. Đó là đình làng Kế Môn, đình làng to nhất tỉnh Thừa Thiên…


Web: www.langkemon.com.vn
Lịch sử nghề kim hoàn Việt Nam
Từ 5.000 năm trước công nguyên, loài người đã tìm ra vàng và sử dụng vàng. Người Ai Cập phát hiện ra trước tiên ở thượng lưu Sông Nin, kim loại quý này đã góp mặt thêm nền văn minh cổ đại Ai Cập. Trong dòng tiến hóa của nhân loại, sắc vàng rực rỡ, choáng ngợp ấy là niềm vui, nguồn hy vọng cho biết bao nhiêu người.
I. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH & PHÁT TRIỂN CỦA CÁC LÀNG NGHỀ VÀNG BẠC VIỆT NAM:
1. Làng nghề vàng bạc Châu Khê (Hải Dương)
Cho đến bây giờ, làng nghề làm vàng bạc Châu Khê, thuộc xã Thúc Kháng, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương đã có lịch sử tồn tại trên 500 năm, bắt nguồn từ Lưu Xuân Tín, quan Thượng thư bộ Lại dưới thời vua Lê Thánh Tông (1460 – 1494) có công khởi dựng nghề đúc bạc nén của làng.
Là quan Thượng thư bộ Lại, nhưng Ông Lưu Xuân Tín rất được triều đình nhà Lê tín nhiệm, giao cho trọng trách lập xưởng đúc bạc nén tại kinh thành Thăng Long, bởi thời điểm ấy, bạc nén là đơn vị thay thế tiền tệ trong mọi hoạt động kinh tế, buôn bán, trao đổi của Xã Hội. Được triều đình dành cho đặc quyền, Lưu Xuân Tín đã ưu tiên cho người làng ông lên Thăng Long lập xưởng đúc bạc tại phường Đông Các. Dần dần, từ nghề đúc bạc, những người thợ Châu Khê đã phát triển lên nghề làm đồ trang sức vàng bạc (còn gọi là Kim Hoàn). Kể từ đó, nghề làm vàng bạc Châu Khê trở nên lừng danh không chỉ ở Hải Dương mà còn lan truyền đến Hà Nội, nơi nổi tiếng với tên phố Hàng Bạc, tập trung rất nhiều thợ làm vàng bạc vùng này.
Không phải là người đầu tiên tìm ra kỹ thuật sản xuất đồ Kim Hoàn, nhưng người Châu Khê có công lớn trong việc biết kết hợp sự khéo léo của đôi bàn tay, sự sáng tạo của trí tuệ, bí quyết riêng của bản thân với kỹ thuật làm vàng cổ truyền để cho ra đời những sản phẩm hoàn thiện nhất, tinh tuý nhất. Họ không chỉ mang đến cho người sử dụng trang sức lộng lẫy và trang trọng, mà còn góp phần duy trì làng nghề truyền thống của cha ông và sự phát triển nghề kim hoàn ở nước ta. Đặc biệt trong khoảng gần 100 năm trở lại đây, làng nghề Châu Khê đã đạt tới đỉnh cao về kỹ thuật sản xuất, chất lượng và số lượng sản phẩm vàng bạc trong cả nước.
Giỗ tổ nghề vàng Châu Khê Hải Dương
2. Làng nghề chạm bạc Đồng Xâm (Thái Bình)
Làng nghề chạm bạc Đồng Xâm thuộc xã Hồng Thái, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình từ lâu nổi tiếng khắp nơi bởi độ tinh xảo với những món hàng độc đáo. Sản phẩm của làng nghề dường như không chỉ có mặt ở nhiều tỉnh thành trong nước mà còn được khách ngoài nước biết tiếng. Nghề truyền thống này là niềm tự hào của người dân nơi đây, do thu hút một lực lượng lao động khá lớn, đến 1.500 người và nó đem lại thu nhập ổn định cho nghề làm nghề.
Tổ nghề chạm bạc là Nguyễn Kim Lâu. Ông sống vào khoảng đầu thế kỷ XVII, vốn làm nghề vàng bạc ở Châu Bảo Long (Cao Bằng ngày nay). Về sau, Ông đến vùng Kiến Xương (Thái Bình) lập ra 12 phường để truyền nghề. Các phường nghề ngày đó nay là nghề chạm bạc Đồng Xâm, nằm ở hữu ngạn sông Đồng Giang. Làng nghề chạm bạc Đồng Xâm được tổ chức sản xuất theo phường hội. Sớm nhất trong các phường nghề này là phường Phước Lộc, về sau do làm ăn ngày thêm phát đạt, thợ mỗi lúc một đông đòi hỏi phường nghề cần được mở rộng đã nảy sinh thêm nhiều phường thợ khác. Mỗi phường đều có một thợ cả đứng đầu, đó là người giỏi nghề đạt đến mức Nghệ Nhân. Dưới thợ cả còn có 6 bậc thợ khác, từ thợ học việc đến thợ phó.
Sản phẩm của Đồng Xâm bao gồm 3 loại: thờ cúng, trang sức và mỹ nghệ. Đồ thờ cúng gồm các loại đỉnh, vạc, lư hương, đĩa quả, chân đèn, ngai, mũ thờ, long lân quy phụng…Loại hàng này không nhiều, chỉ mang dạng sản xuất đơn chiếc, được khách hàng nước ngoài chú ý và coi chúng như món đồ cổ quý giá. Đồ trang sức gồm rất nhiều loại như: dây chuyền, xà tích, hoa tai, nhẫn, vòng, trâm, lắc, khánh, thánh giá… bằng bạc. Mỗi loại lại có nhiều kiểu, dáng khác nhau. Riêng nhẫn có các kiểu: gióng trúc, mặt nhật, lòng máng, mặt vuông, mặt đá, mặt ngọc, nhẫn trơn… Mặt nhẫn được khắc hoa, lá, hình trái tim, chữ nổi…
Trong suốt chặng đường hình thành và phát triển nghề nghiệp gần 400 năm, những thế hệ bạc Đồng Xâm đã tạo ra vô số sản phẩm cho xã hội
3. Làng nghề dát vàng Kiêu Kỵ (Gia Lâm – Hà Nội)
Kiêu Kỵ thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội là nơi duy nhất trong cả nước còn nghề làm vàng quì. Đây là một làng nhỏ cách trung tâm Thành Phố Hà Nội khoảng 10 km về phía Đông Bắc. Cả làng có khoảng 30 gia đình với tổng số hơn 200 người làm nghề dát vàng quì. Nghề làm vàng quì ở đây có lịch sử hình thành, phát triển trong khoảng 250 năm.
Ông Nguyễn Quý Trị đỗ tiến sĩ đời Cảnh Hưng (1740 – 1786), thuở nhỏ Ông sinh ra và lớn lên ở làng Kiêu Kỵ. Vào năm 1763, khi đang làm quan đến chức Tả Thị Lang, Hàn lâm viện trực học sĩ, ông được cử đi sứ sang Trung Quốc. Trên đường công cán ông nhận thấy ở đất nước người có nghề rất hay: nghề dập dát vàng bạc để sơn thếp vàng bạc lên câu đối, hoành phi… Ông cố gắng tìm hiểu và học cho được nghề. Khi về nước ông phổ biến cho dân làng.
Từ đó trở đi, dân làng Kiêu Kỵ sống hẳn với nghề này và đời sống trở nên khá giả hơn so với nghề nông. Đến nay người dân Kiêu Kỵ vẫn gìn giữ và lưu truyền lại nghề vàng quỳ cho con cháu.
Một trong những sản phẩm dát vàng tiêu biểu của làng Kiêu Kỵ là bức tượng Quan âm nghìn mắt nghìn tay tại chùa Bút Tháp, do nhà điêu khắc họ Trương tạc năm 1656), đến nay vẫn giữ được vẻ đẹp nhờ được thếp vàng.
4. Làng nghề dây chuyền Bình Chánh (TP.HCM)
Làng nghề Hưng Long chỉ mới xuất hiện vào khoảng những năm 1970, không có bề dày lịch sử như làng nghề Đồng Xâm – Thái Bình, Châu Khê – Hải Dương. Người đầu tiên làm thợ bạc và có công truyền nghề lại cho làng là hai thầy Tám Mây và Hai Thơm ở Tân Hóa.
Không giống như nghề dệt hay đúc đồng, chỉ đến đầu ngõ đã nghe những âm thanh nhộn nhịp, ầm ì. Làng nghề Hưng Long gồm các hộ nằm rải rác, cách xa nhau, nên không khí ở đây yên ắng, nhịp sống làng nghề cũng dường như chậm lại.
Nghề làm dây chuyền vàng ở các gia đình tại làng Hưng Long tốn rất nhiều công sức, bao gồm thủ công kết hợp máy móc tự chế. Tưởng như đơn giản nhưng việc chế tác phải qua rất nhiều công đoạn gồm cán-kéo-vấn (cuốn) – rã, (cắt) – kết (móc) – hàn – áo (màu sắc) – bào (đánh bóng) – thành phẩm, đòi hỏi người thợ phải tỉ mỉ trong từng chi tiết của sản phẩm, dù là nhỏ nhất.
II. TỔ NGHỀ – NHỮNG NGƯỜI KHAI SÁNG NGÀNH KIM HOÀN VIỆT NAM:
Ông Cao Đình Độ sinh năm 1744 tại làng Cẩm Tú, huyện Cẩm Thủy, tỉnh Thanh Hóa. Xuất thân từ một gia đình nông dân, thuở thiếu thời ông rất ham học và đựơc truyền thụ nền giáo dục của đạo Nho. Lớn lên ông làm nghề bịt đồng. Thế nhưng, niềm đam mê lớn trong ông là trở thành một người thợ Kim Hoàn xuất sắc. Ước mơ mãnh liệt ấy ngày đêm luôn thôi thúc, buộc ông lên đường “tầm sư học đạo”. Để học được nghề, ông phải cải trang người Hoa xin vào giúp việc cho một chủ tiệm vàng ở Thăng Long (Hà Nội). Bởi thời kỳ này chỉ có người Trung Hoa mới nắm được cách chế tác và độc quyền sản xuất, buôn bán vàng bạc.
Tính hiếu học và lòng trung thực của ông khiến chủ tiệm Kim Hoàn người Hoa cảm động, quý mến và truyền nghề cho ông. Mặc dù người Hoa có tiếng là giữ nghề, không truyền cho người ngoài, nhưng với tư chất thông minh, lanh lợi sẵn có, ông quan sát tìm hiểu và nắm bắt được biết quyết nghề kim hoàn của người Hoa. Với ý chí phải học cho thành tài, ông học cả cách chế tạo dụng cụ cần thiết của nghề chạm trổ vàng bạc và không từ chối bất cứ việc gì chủ sai bảo. Công sức của ông đã được đền đáp xứng đáng, tay nghề ông ngày càng thành thạo và đạt trình độ kỹ thuật tinh xảo đủ sức tranh tài với những thợ Kim Hoàn người Hoa khác tại đất Thăng Long thời bấy giờ.
Năm 1783, Ông Cao Đình Độ đưa vợ con vào làng Kế Môn, huyện Phong Điền, Thuận Hóa lập nghiệp và truyền nghề cho con. Thừa hưởng đức tính thông minh của cha, cong trai ông – Cao Đình Hương, tiếp thu nghề Kim Hoàn một cách nhanh chóng và trở thành một nghệ nhân thành thục trong nghề. Tại Thuận Hóa, Ông Cao Đình Độ có thu nhận để tử, truyền nghề cho họ. Làng Kế Môn trở thành làng nghề Kim Hoàn từ đó.
Dưới thời vua Quang Trung, danh tiếng Ông Cao Đình Bộ được lan truyền đến triều đình. Năm 1790, vua Quang Trung triệu hai cha con ông cùng một số thợ bạc ở làng Kế Môn vào triều để lập cơ vệ Ngân Tượng, nơi chuyên nghiên cứu nghệ thuật điêu khắc, trạm trổ vàng bạc và đồ trang sức cung điện. Trước công đức và những đóng góp lớn lao đó, ông được triều đình phong chức Lãnh Binh, cùng gia đình sống tại làng Cao Hậu, huyện Hương Trà.
Đến khi Nguyễn Ánh lập nên triều Nguyễn, lấy niên hiệu Gia Long vào năm 1802, tất cả mọi thành tựu văn hóa dưới triều Quang Trung điều bị phá hủy, chỉ duy nhất ngành Ngân Tượng được bảo tồn. Hai cha con ông Cao Đình Độ và Cao Đình Hương cũng như nhóm thợ làng Kế Môn vẫn được vua Gia Long trọng dụng, cấp bổng lộc và giữ nguyên tước cũ để tiếp tục nghề Kim Hoàn trong cung điện.
Năm 1810, Ông Cao Đình Độ qua đời, hưởng thọ 66 tuổi. Mặc dù còn được kế tục sự nghiệp của cha trong triều với chức quan Lãnh Binh, nhưng bằng cách nhìn nhạy bén của người trong nghề, Cao Đình Hương nhìn thấy hoài bão của cha mình sẽ bị mai một theo thời gian, không những thế, nghề Kim Hoàn sẽ bị thất truyền nếu ông chỉ quanh quẩn phục vụ trong cung vua. Cao Đình Hương quyết định từ quan về nhà để tìm người nối nghiệp gia đình. Nghề Kim Hoàn ở miền Trung từ đó mà được nhân rộng.
Cảm phục tài nghệ và danh tiếng Cao Đình Hương, quan Thượng thư bộ Lại lúc bấy giờ là Trần Minh, cùng vợ là Huỳnh Thị Ngoc (dưới thời Gia Long) mời ông về dinh phủ dạy nghề Kim Hoàn cho ba người con trai: Trần Hòa, Trần Điện, Trần Điền và ba người cháu: Huỳnh Quang, Huỳnh Bảo, Huỳnh Nhật. Ròng rã súôt 11 năm truyền dạy cho các học trò, năm 1821, Ông Cao Đình Hương qua đời. Trước khi mất, tâm huyết sau cùng của ông là mong muốn học trò của mình đem nghề Kim Hoàn truyền bá rộng rãi trong dân gian.
Theo di chúc của thầy, ba anh em Trần Hòa, Trần Điện, Trần Điền ngược ra Thăng Long (Hà Nội) mở lò thu nhận đệ tử. Riêng anh em họ Huỳnh theo dòng người lập nghiệp xuôi vào phương Nam, đến Phan Thiết thì dừng chân, vừa thu nhận đệ tử truyền nghề, vừa để tưởng nhớ một người anh em của mình đã qua đời tại đây. Nghề Kim Hoàn ở Phan Thiết được khai sinh từ đó.
Ở miền Nam, nghề Kim Hoàn lúc ấy vẫn chưa được phổ biến rộng rãi. Theo ước nguyện của thầy, từ Thăng Long, anh em họ Trần bắt đầu cuộc hành trình xuôi vào Phương Nam. “Đất lành chim đậu”, đểm dừng chân của họ là Gia Định – Chợ Lớn, nơi có thương cảng sầm uất, hội tụ thương hồ từ các tỉnh lân cận, kể từ Cao Miên (Campuchia), Xiêm La (Thái Lan), đến buôn bán náo nhiệt. Ba ông chọn địa điểm các Chợ Lớn khoảng một dặm (cảng Bình Đông ngày nay) mở lò thợ bạc tại đây lại có điều kiện phát triển rộng khắp.
Sau khi truyền nghề cho 36 lò thợ bạc ở Chợ Lớn, anh em họ Trần lại tiếp tục hành trình đến các tỉnh miền Tây, ngược qua Campuchia, Thái Lan…rồi qua đời ở đâu không ai biết. Nếu như tiền tổ họ Cao có công khai sáng nghề Kim Hoàn, thì họ Trần, Huỳnh chính là những người có công phổ biến nghề Kim Hoàn trên khắp đất nước, suốt từ Bắc vào Nam. Họ được người trong nghề tôn vinh là tổ sư đời thứ Hai của ngành Kim Hoàn Việt Nam.
Công lao của các tổ sư Kim Hoàn không chỉ được người đời sau luôn ghi nhớ, mà còn nhận được nhiều sắc phong của triều đình, đặc biệt dưới triều Nguyễn. Hiện nay, tại nhà thờ tổ nghề Kim Hoàn ở Huế và Lệ Châu hội quán (Thành Phố Hồ Chí Minh) còn lưu giữ nhiều bản sắc phong của triều đình, đặc biệt dưới triều Nguyễn. Hiện nay, tại nhà thờ tổ nghề Kim Hoàn ở Huế và Lệ Châu hội quán (Thành Phố Hồ Chín Minh) còn lưu giữ nhiều bản sắc phong của các vua nhà Nguyễn. Đó là hàm cấp bậc “Tiến sĩ khai hóa Kim Ngân” với phẩm tước đại triều “Dực Bảo Trung Hưng”, chức Lãnh Binh của vua Gia Long cho ông Cao Đình Độ. Sau khi mất ông còn được truy phong thêm tước hiệu “Đệ Nhất tổ sư”. Đến thời vua Minh Mạng, hai cho con cao Đình Độ, Cao Đình Hương được sắc phong “Dực bảo Trung Hưng Linh Phò Bổn Xứ – khai hóa kim ngân Thế Tổ Cao Đình Độ tọa thần vị – Cao Đình Hương linh thần vị”, phong tước hiệu “Đệ nhị tổ sư” cho Ông Cao Đình Hương, được ban đất xây lăng như các quan đại thần. Đời vua Khải Định năm thứ 9 và Bảo Đại năm thứ 13, hai ông được sắc phong “Dực bảo Trung Hưng Linh Phò chi thần” cho người có công khai sáng ngành Kim Hoàn Việt Nam.
Lăng mộ hai vị Tổ sư đời thứ nhất đều toạ lạc tại phường Trường An về phía Nam thành phố Huế, trong đó lăng mộ đệ Nhất Tổ sư Cao Đình Độ xây dựng năm 1810, lăng mộ đệ Nhị Tổ sư Cao Đình Hương xây dựng năm 1821, theo kiến trúc văn hóa đặc trưng của triều Nguyễn. Đền thờ hai ông được đặt tại phường Phú Cát (Huế). Cả khu mộ và nhà thờ tổ nghề Kim Hoàn đã được Bộ Văn Hóa Thông tin cấp bằng Di tích Lịch sử Văn hóa.
Để tưởng nhớ công lao to lớn của hai vị Tổ nghiệp, hằng năm, các thợ Kim Hoàn miền Trung (Huế) tổ chức lễ giỗ tổ Ông Cao Đình Độ vào ngày 27-2 (âm lịch). Tại làng Định Công (Hà Nội), giỗ tổ sư họ Trần, Phan Thiết giỗ tổ sư họ Huỳnh.
Qua những biến chuyển của thời đại, nghề Kim Hoàn không bị mai một mà còn được lưu giữ, truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Dù ngày nay, vàng bạc được sản xuất chủ yếu trên dây chuyền hiện đại, nhưng tổ thờ vẫn được coi trọng và tôn thờ.
Đền thờ tổ nghề Kim Hoàn
III. LỆ CHÂU HỘI QUÁN VÀ NGÀY GIỖ TỔ KIM HOÀN:
Theo ước lệ của từng vùng, ngày giỗ tổ Kim Hoàn ở Việt Nam có khác, nhưng điều được tổ chức vào tháng 2 âm lịch hằng năm trong không khí trang nghiêm, tưởng nhớ các bậc tiền nhân đã có công khai sáng nghề kim hoàn. Tại Thành Phố Hồ Chí Minh, lễ giỗ theo nghi tức truyền thống, lớn và quy mô nhất diễn ra ở Lệ Châu hội quán – di tích lịch sử cấp quốc gia đã được Bộ văn hóa Thông in công nhận vào năm 1998.
Xuất xứ tên gọi Lệ Châu: Nhà thờ tổ kim hoàn – Lệ Châu hội quán toạ lạc tại số 586 Trần Hưng Đạo, Phường 14, Quận 5, cách trung tâm Thành Phố Hồ Chí Minh khoảng 6Km. Lệ Châu hội quán tuy không lớn về khuôn viên, không đặc sắc về quy mô kiến trúc nhưng là một di tích quan trọng của nghề Kim Hoàn ở TP.Hồ Chí Minh.
Theo lời kể lại, từ trước năm 1892, thợ kim hoàn tại khu vực Chợ lớn thường tập hợp ở các lò chế tác nữ trang, vì lúc này các tiệm vàng chuyên bán nữ trang chưa có. Càng ngày nghề thợ bạc càng phát triển nên nhiều người có sáng kiến lập một ngôi nhà tổ nghiệp kim hoàn, để con cháu đời sau biết đến nghề của ông cha mình.
Vào năm 1892, nhà thờ tổ được tiến hành xây cất qua nhiều lần sửa chữa, tu bổ, đến năm 1896 mới hoàn thành và tạm gọi là: “Nhà thờ tổ kim hoàn”. Cho đến đợt trùng tu vào năm 1934, ngôi đền được dựng bằng gỗ lim, mái ngói móc lợp theo kiểu âm dương. Phía trước đền có bộ cửa sắt bao bọc, trên vòm cửa có bốn chữ: “Lệ Châu Hội Quán” được đúc bằng đồng. Dọc hai bên cửa sắt có câu dối:
“Lệ thủy kim sanh cơ quốc thái
Châu đê ngân xuất nghiệp dân an”
(Sông Lệ sinh vàng nên quốc thái
Bờ Câu ra bạc nghiệp dân an)
Nguồn gốc tên Lệ Châu được giải thích bằng hai cách. Sở dĩ đền Lệ Châu được đặt tên như thế xuất phát từ câu: “Kim Trần Lệ Thủy, Ngân Xuất Châu Đê” (Vàng chìm sông lệ, bạc xuất bờ châu). Hai chữ Lệ Châu có nghĩa là vàng bạc và ý này được lấy để đặt tên cho ngôi đình tổ thợ bạc.
Ngoài ra truyền thuyết của ngành thợ kim hoàn, đền thờ Lệ Châu do các thợ bạc Chợ Lớn lập nên để nhớ ơn ba anh em họ Trần ở làng Đinh Công (Hà Nội) vào vùng Sài Gòn – Chợ Lớn phổ biến nghề thợ kim hoàn. Sau một thời gian, ba ông tiếp tục qua Nam Vang (Campuchia), Lào, Thái Lan truyền nghề và không trở về nữa. Nhớ ơn tổ nghề, những người thợ bạc đã cùng nhau lập nhà thờ, lấy tên Lệ Châu, còn có nghĩa là nước mắt rơi, nói lên nỗi mất mát, thương nhớ của học trò đối với thầy.
Chính vì những lý do trên, những người trong ngành kim hoàn đã thống nhất đổi tên ngôi đền là Lệ Châu. Lệ Châu là nơi quy tụ các tay nghề thợ bạc cùng nhau đoàn kết để phát huy nghề truyền thống, nên được gọi Lệ Châu hội sở, sau đổi thành Lệ Châu hội quán cho đến nay.
Lệ Châu Hội Quán được xây dựng theo kết cấu ba gian dọc, trước có sân rộng khoảng 400m2. Bên trong trang trí đơn giản và chỉ có ba khám thờ. Khám ở giữa thờ một bức sơn son thiếp vàng với hai chữ đại tự rất đẹp “Tổ Sư”. Khám thờ bên phải nhỏ hơn với hai chữ “Tiền Hiền”, bên trái là hai chữ “Hậu Hiền”. Từ ngoài vào trong có 9 bức hoành phi, chủ đề nói lòng nhớ ơn công đức tổ nghề như “ Bản thủy sơn tiên”, “Nghệ truyền nguyên phái”… Riêng 5 câu đối sơn son thiếp vàng được chạm khắc tinh sảo ở hai bàng cột cũng không nằm ngoài nội dung ấy . Tất cả các bức hoành phi, câu đối, khám thờ sơn son thiếp vàng còn rực rỡ, rõ nét, chạm trổ công phu, chứng tỏ độ vàng và tuổi vàng cao
Chính điện đặt chuông và trống đối diện hai bên. Ngoài ra còn một số bàn và giá ảnh (bình phong) chạm khắc rất tinh xảo, mô tả cảnh sơn thủy của người Hoa dâng tặng Lệ Châu hội quán.
Đáng chú ý hơn cả ở Lệ Châu Hội quán là bốn tấm bia nằm đăng đối nhau hai bên vách chính điện. Trên các tấm bia ghi tên người, tên hiệu, tên địa phương của những người làm nghề thợ bạc và số tiền đóng góp cho hội quán ở khắp vùng đất lục tỉnh xưa kia. Lệ Châu hội quán đã trải qua nhiều thăng trầm của biến cố lịch sử. Tuy nhiên, bắt đầu từ lúc mới gầy dựng qua các bước tiến của nghề nghiệp, của sự đoàn kết giữa chủ và thợ mà Lệ Châu hội quán luôn được tu bổ, bảo quản trọn vẹn như ngày nay.
Nếu trước đây chỉ có 3 khám thờ, từ năm 1998, Lệ Châu hội quán còn có sắc phong thờ Đệ Nhất tổ sư Cao Đình Độ, Đệ nhị tổ sư Cao Đình Hương, các vị tổ đời thứ hai là ba anh em họ Huỳnh: Huỳnh Quang, Huỳnh Bảo, Huỳnh Nhật. Ngày chánh giỗ tổ sư kim hoàn lấy theo ngày mất của nhị tổ sư cao Đình Hương vào ngày 7 – 2 (âm lịch) hằng năm.
Hằng năm, vào các ngày 6, 7, 8 – 2 âm lịch được xem là ngày hội của những người sản xuất, kinh doanh vàng bạc. Lễ giỗ tổ kim hoàn được tổ chức rất qui mô, quy tụ hàng ngàn người trong ngành thợ kim hoàn, không chỉ riêng Thành Phố Hồ Chí Minh mà từ các tỉnh Nam Bộ cũng về dự, cúng bái những tổ sư khai sáng ngành kim hoàn. Đồng thời, đây còn là dịp để các đồng nghiệp gặp gỡ, trao đổi kinh nghiệm, giúp đỡ nhau trong nghề nghiệp, chia sẽ những chuyện buồn vui trong cuộc sống…
Những ngày này, Lệ Châu hội quán được trang hoàng rực rỡ, nến và hương được thắp từ trong đến ngoài, tạo cho ngày giỗ hết sức trang nghiêm. Mặc dù mùng 7 mới là chánh lễ, nhưng việc cúng tế đã được chuẩn bị trước đó vài ngày. Không phải ai cũng lo việc cúng tế, mà phải là những người đã qua lớp Tổng lý – chuêyn trách phụ cúng kiếng, nhang đèn vào các dịp lễ trong năm: giỗ tổ, Thanh minh, Vu lan. Mỗi tổng lý chỉ lo việc cúng tế trong một năm.
Mở màn giỗ tổ là tối mùng 6 – 2 với nghi thức cúng cầu quốc thái dân an, tuyên đọc sắc phong tổ sư thợ bạc Việt Nam của các vị vua Triều Nguyễn cho người tham dự, đặc biệt là người trong nghề hiểu biết xuất xứ của tổ nghề. Ngày chánh tế mùng 7 – 2, cúng ba “Viên” theo nghi thức lễ giỗ truyền thống. Viên thứ nhất cúng Chấp minh vào 8 giờ sáng để rước tổ sư. Viên thứ hai cúng Chánh tế tổ sư từ 22 giờ đến 24 giờ. Viên thứ ba diễn ra vào 16 giờ ngày 8 – 2, tế nghĩa từ – những người có công xây dựng Lệ Châu hội quán.
Viên là cách gọi về mỗi phần lễ. Viên được tiến hành theo nghi thức cổ truyền, dâng phẩm vật như trà, bánh, trái cây, heo quay…Trong các viên, chánh hoặc phó hội trưởng Lệ Châu hội quán đọc văn tế đọc trong ngày giỗ tổ do soạn giả cải lương Viễn Câu sáng tác, thay vì xưa kia chỉ xây chầu hát bội.
Những thành viên ban quản trị đền thờ trong bộ lễ phục áo dài khăn đóng, đứng trước Bài Vị tổ sư vái lạy. Bên trong đền, những người thợ bạc thắp hương và dâng mâm hoa quả xếp hình long, lân, quy, phụng với tấm lòng thành kính, biết ơn người đã có công truyền dạy nghề cho con chấu, giúp ích cho xã hội và mang lại cuộc sống ấm no cho gia đình họ.
Nếu xưa kia, Lệ Châu Hội Quán là nơi hội họp quan trọng của những người thợ bạc vùng đất lục tỉnh thì ngày nay, Lệ Châu hội quán đã trở thành nơi để thợ kim hoàn thể hiện lòng biết ơn đối với tổ nghề. Chính nơi đây họ còn tìm thấy một sức mạnh tinh thần để có thêm niềm tin đối với bản thân cũng như nghề nghiệp. Đền thờ tổ nghề kim hoàn – Lệ Châu hội quán đã được Bộ Văn Hóa Thông Tin cấp bằng công nhận Di Tích Lịch Sử Văn Hóa vào năm 1998.
Phố Hàng Bạc – Di sản phố cổ ở Hà Nội
Một góc phố Hàng Bạc Phố cổ Hà Nội nổi tiếng với những ngôi nhà chồng diêm, nhà hình ống, những mái ngói cong, lô xô mềm mại tạo ra nét duyên dáng riêng làm cho Hà Nội có nét đẹp riêng không hề giống với các thành phố khác trên thế giới. Phố Hàng Bạc là một trong những con phố cổ ở Hà Nội – một di sản của Hà Nội mà chúng ta cần gìn giữ
Theo nghiên cứu của các chuyên gia Sử học thì trong các sách chính sử đều không thấy chép niên đại cụ thể sự ra đời của phố Hàng Bạc, nhưng căn cứ theo nội dung của tấm bia đặt tại đình Dũng Hãn (42 Hàng Bạc) có thể xác định được phố Hàng Bạc ra đời vào thời Lê hoặc có thể sớm hơn một chút.
Vào thời Lê, phố Hàng Bạc thuộc về phường Đông Các, huyện Thọ Xương. thời Nguyễn, phố Hàng Bạc thuộc thôn Dũng Thọ, tổng Hữu Túc sau đổi thành tổng Đông Thọ, huyện Thọ Xương, phủ Hoài Đức. Ngày nay phố Hàng Bạc dài 280m, đi từ phố Hàng Mắm đến ngã tư tiếp giáp với Hàng Đào (trước kia là phố chuyên nghề nhuộm chuội và bán tơ lụa), Hàng Ngang (nơi sinh sống và buôn bán của các Hoa kiều gốc Quảng Đông) và phố Hàng Bồ (nơi tập trung buôn bán các thứ bồ đan bằng tre, nứa), thuộc phường Hàng Bạc, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Dưới thời Pháp, phố có tên là Rue des Changeurs tức là Phố của những người đổi tiền.
Tại phố Hàng Bạc, ngoài những người dân gốc, vốn đã từng sinh sống từ trước còn có cư dân của ba làng khác di cư đến. Đó là dân của các làng Châu Khê (Hưng Yên), Định Công Thượng (Thanh Trì, Hà Nội) và làng Đồng Sâm nổi tiếng với nghề chạm bạc, người Định Công chuyên về đồ đậu, còn người Châu Khê lại làm nghề đúc bạc đổi tiền.
Để phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày cho vua quan, Nho sỹ và để xây dựng nhà cửa, cung điện, những thương nhân, thợ thủ công… từ các địa phương đến kinh thành ngày một nhiều. Phương thức di dân phổ biến là cả một tập thể thôn xóm theo những người họ hàng thuộc các vị tổ nghề cùng nhau lên kinh đô, rồi lại cùng nhau sống quây quần tại một địa điểm, một phường nhất định. Hình thức di cư này tạo nên các phường chuyên nghề và chuyên mặt hàng của đất Kinh kỳ Thăng Long 36 phố phường. Mỗi phường sản xuất và bày bán một loại hàng cố định. Đây chính là nét độc đáo của khu phố cổ Hà Nội.
Những người dân sống ở khu phố cổ Hà Nội vẫn luôn có sự liên hệ với các làng quê gốc của mình. Họ vẫn có nhà và ruộng đất ở quê, và họ vẫn trở về quê vào các dịp lễ Tết vừa để hưởng quyền lợi, vừa thực thi nghĩa vụ với làng. Họ luôn gắn bó với nhau hướng về làng quê gốc trong việc xây dựng đền thờ vọng thành hoàng làng mình. Như vậy, những người dân sống ở khu phố cổ Hà Nội tồn tại trong nhiều mối quan hệ, vừa là thành viên của thôn, phường sở tại, vừa là thành viên của làng quê gốc.
Khi lên phố Hàng Bạc sinh sống, những người dân làng Châu Khê đã dựng 2 ngôi đình. Đó là đình Trương Thị ở số nhà 50 và đình Kim Ngân ở số nhà 42. Đến cuối thế kỷ XIX, khi dân làng Châu Khê lên lập nghiệp ngày càng đông, 2 ngôi đình không đủ chỗ cho dân làng hội họp và tế lễ họ đã mua Nội Miếu ở thôn Hài Tượng (nay ở số 30 phố Hàng Giầy) để làm đền thờ vọng về quê, gọi là Châu Khê vọng sợ. Hàng năm cứ đến ngày 19 tháng Giêng, những người dân Châu Khê phố Hàng Bạc lại trở về làng Châu Khê, xã Thúc kháng, huyện Bình giang, tỉnh Hải dương để dự hội quê mình.
Dân làng Định Công thì lập đền thờ 3 ông tổ nghề Kim Hoàn là Trần Điền, Trần Điện và Trần Hoà ở đầu phố Hàng Bồ. Cứ vào ngày 12 tháng 2 âm lịch hàng năm, dân làng Định Công lại mở hội, tưởng nhứ công lao ba người thầy của nghề kim hoàn. Những người dân làng Đông Sâm do lên sinh sống ở phố Hàng Bạc ít nên họ chưa có điều kiện lập đình, miếu ở đây.
Như tên gọi của nó, phố Hàng Bạc là nơi sinh sống của những người làm nghề đổi vàng bạc. Quang cảnh cung của phố trước đây là: “Những người ngồi xếp bằng tròn sau quầy hàng của mình, trước mặt là đống tiền và một chiếc tráp nhỏ sơn son, dùng làm hòm đựng tiền của họ”. Đổi bạc là một trong nghề quan trọng ở Kẻ Chợ.
Phố Hàng Bạc còn nổi tiếng với kiến trúc đặc sắc là nhà hình ống và nhà chồng diêm. Nhà hình ống với bề dài, bề rộng có hạn, cha ông ta đã sáng tạo nên không gian ở, thờ phụng, nghỉ ngơi, sản xuất và buôn bán hết sức hợp lý và khoa học, vẫn có cả khoảng không để đưa thiên nhiên vào trong nhà. Nhà chồng diêm là loại nhà hai tầng không hoàn toàn với gác xép có cửa giả hoặc cửa cỡ nhỏ, hoặc cửa tròn mở ra phố. Loại nhà này ngoài mái ngói nghiêng xuống mặt phố còn có mái tranh vẩy thêm ra hè. Kiến trúc trang trí đơn giản, hai đầu hồi xây vài ba bậc giật cấp, có đường chỉ hay đường triện đơn giản. Bờ nóc mái hơi cong lên ở hai đầu và gờ trang trí. Kết thúc ở hai đầu góc mái là các đầu xây gạch trang trí bằng gờ chỉ…
Ngoài nhà ở, giá trị kiến trúc của phố Hàng Bạc còn thể hiện ở các di tích lịch sử như đình, đền còn lại cho đến ngày nay. Đó là các đình Dũng Hãn, Dũng Thọ, Kim Ngân và Trương Thị.
Văn bia Trùng tu đền thần giáp Dũng Hãn niên hiệu Cảnh Hưng thứ 44, cho biết đình Dũng Hãn được xây dựng gần cuối thế kỷ XVIII, trùng tu vào năm Thành Thái thứ 3 (1891). Đình có quy mô rộng rãi, chính giữa là nơi thờ Linh Lang đại vương, bên ngoài có miếu thờ thần nữ.
Đền Dũng Thọ nằm ở góc giữa phố Hàng Bạc và Mã Mây, Cửa ngôi đền rộng khoảng 2,5m, cao 2m, xây theo lối chồng diêm 8 mái, cong ở hai bên. Trên đầu mái có đắp nổi hai đầu thuỷ quái Macara chầu vào giữa. mái lợp bằng ngói ống. Trên cổng có đắp 3 chữ Hán “Dũng Thọ từ”.
Đình Trương Thị và Kim Ngân cùng thờ một vị thần là Hoàng đế Hiền Viên – ông tổ bách nghệ trong huyền thoại Trung Quốc. Hai đình này đều được xây dựng vào thế kỷ XIX.
Phố Hàng Bạc ngày nay. Ảnh: Internet
Theo bản đồ Hà Nội thời Nguyễn, Hàng bạc nằm trên 1 trong 2 trục phố chính chạy thẳng từ Cửa Đông ra đến bờ sông Hồng. Thế kỷ XVII- XVIII, đường phố ở đây khá rộng, khoảng “10 hoặc 12 con ngựa có thể đi hàng ngang”. Phố chạy thẳng, “một nửa đường là đất để chuyên dành cho lối đi của súc vật và chở hàng hoá, nửa kia được lát gạch dùng làm lề đường cho khách bộ hành”. Cùng với Hàng Đào, Hàng Ngang, Hàng Buồm, Lãn Ông, Hàng Bạc được xếp vào những phố to đẹp trong khu phố cổ Hà Nội, nơi có nhiều nhà ngói, nhiều cửa hiệu to rộng, đường phố sạch sẽ và được lát đá. Đến thế kỷ XIX, Thăng Long không còn giữ vai trò kinh đô của cả nước, nên tình hình đường xã cũng bị thu hẹp do không được quan tâm, sang sửa.
Là một trong những con phố cổ lâu đời nhất của Hà Nội với những công trình kiến trúc đặc sắc và nét văn hoá đặc trưng như vậy nhưng hiện nay, phố Hàng Bạc cũng đang là một trong những di sản bị xuống cấp trầm trọng, các công trình kiến trúc cổ bị lấn chiếm, người dân cũng đang cho xây dựng nhà cửa bừa bãi không theo quy hoạch, nên chất “cổ” của con phố đang mất dần. Đây là điều đáng báo động đối với các di sản của Thăng Long – Hà Nội. Vì nếu để mất đi khu phố cổ thì dù Hồ Gươm có đẹp đến đâu, Hà Nội có được phát triển khang trang hiện đại đến đâu cũng sẽ mất đi sự hấp dẫn riêng có của nó và giống như bao thành phố khác trên thế giới.
Năm 1783, Ông đưa vợ con vào làng Kế Môn, huyện Phong Điền, Thuận Hóa lập nghiệp và truyền nghề cho con. Thừa hưởng đức tính thông minh của cha, cong trai ông – Cao Đình Hương, tiếp thu nghề kim hoàn một cách nhanh chóng và trở thành một nghệ nhân thành thục trong nghề. Tại Thuận Hóa, Ông Cao Đình Độ có thu nhận để tử, truyền nghề cho họ. Làng Kế Môn trở thành làng nghề kim hoàn từ đó.
Dưới thời vua Quang Trung, danh tiếng Ông Cao Đình Độ được lan truyền đến triều đình. Năm 1790, vua Quang Trung triệu hai cha con ông cùng một số thợ bạc ở làng Kế Môn vào triều để lập cơ vệ Ngân Tượng, nơi chuyên nghiên cứu nghệ thuật điêu khắc, chạm trổ vàng bạc và đồ trang sức cung điện. Trước công đức và những đóng góp lớn lao đó, ông được triều đình phong chức Lãnh Binh, cùng gia đình sống tại làng Cao Hậu, huyện Hương Trà.
Đến khi Nguyễn Ánh lập nên triều Nguyễn, hai cha con ông Cao Đình Độ và Cao Đình Hương cũng như nhóm thợ làng Kế Môn vẫn được vua Gia Long trọng dụng, cấp bổng lộc và giữ nguyên tước cũ để tiếp tục nghề kim hoàn trong cung điện.
Năm 1810, Ông Cao Đình Độ qua đời, hưởng thọ 66 tuổi. Bằng cách nhìn nhạy bén của người trong nghề, Cao Đình Hương nhìn thấy hoài bão của cha mình sẽ bị mai một theo thời gian, không những thế, nghề kim hoàn sẽ bị thất truyền nếu ông chỉ quanh quẩn phục vụ trong cung vua. Ông quyết định từ quan về nhà để tìm người nối nghiệp gia đình. Nghề kim hoàn ở miền Trung từ đó mà được nhân rộng.
Cảm phục tài nghệ và danh tiếng Cao Đình Hương, quan Thượng thư bộ Lại lúc bấy giờ là Trần Minh, cùng vợ là Huỳnh Thị Ngọc (dưới thời Gia Long) mời ông về dinh phủ dạy nghề kim hoàn cho ba người con trai: Trần Hòa, Trần Điện, Trần Điền và ba người cháu: Huỳnh Quang, Huỳnh Bảo, Huỳnh Nhật. Ròng rã suốt 11 năm truyền dạy cho các học trò, năm 1821, Ông Cao Đình Hương qua đời. Trước khi mất, tâm huyết sau cùng của ông là mong muốn học trò của mình đem nghề kim hoàn truyền bá rộng rãi trong dân gian.
Theo di chúc của thầy, ba anh em Trần Hòa, Trần Điện, Trần Điền ngược ra Thăng Long (Hà Nội) mở lò thu nhận đệ tử. Riêng anh em họ Huỳnh theo dòng người lập nghiệp xuôi vào phương Nam, đến Phan Thiết thì dừng chân, vừa thu nhận đệ tử truyền nghề, vừa để tưởng nhớ một người anh em của mình đã qua đời tại đây. Nghề kim hoàn ở Phan Thiết được khai sinh từ đó.
Tiêu bản, sắc bản tổ nghề kim hoàn
Ở miền Nam, nghề kim hoàn lúc ấy vẫn chưa được phổ biến rộng rãi. Theo ước nguyện của thầy, từ Thăng Long, anh em họ Trần bắt đầu cuộc hành trình xuôi vào Phương Nam. “Đất lành chim đậu”, điểm dừng chân của họ là Gia Định – Chợ Lớn, nơi có thương cảng sầm uất, hội tụ thương hồ từ các tỉnh lân cận, kể từ Cao Miên (Campuchia), Xiêm La (Thái Lan), đến buôn bán náo nhiệt. Ba ông chọn địa điểm cách Chợ Lớn khoảng một dặm (cảng Bình Đông ngày nay) mở lò thợ bạc tại đây lại có điều kiện phát triển rộng khắp.
Sau khi truyền nghề cho 36 lò thợ bạc ở Chợ Lớn, anh em họ Trần lại tiếp tục hành trình đến các tỉnh miền Tây, ngược qua Campuchia, Thái Lan… rồi qua đời ở đâu không ai biết. Nếu như tiền tổ họ Cao có công khai sáng nghề Kim Hoàn, thì họ Trần, Huỳnh chính là những người có công phổ biến nghề Kim Hoàn trên khắp đất nước, suốt từ Bắc vào Nam. Họ được người trong nghề tôn vinh là tổ sư đời thứ Hai của ngành kim hoàn Việt Nam.
Để tưởng nhớ công lao to lớn của hai vị Tổ nghiệp, hằng năm, các thợ kim hoàn miền Trung (Huế) tổ chức lễ giỗ tổ Ông Cao Đình Độ vào ngày 27-2 (âm lịch). Tại làng Định Công (Hà Nội), giỗ tổ sư họ Trần, Phan Thiết giỗ tổ sư họ Huỳnh.
Dù ngày nay, nữ trang vàng bạc được sản xuất chủ yếu trên dây chuyền hiện đại, nhưng tổ thờ vẫn được coi trọng và tôn thờ
Làng nghề kim hoàn Kế Môn (Thừa Thiên Huế)
Cách trung tâm thành phố Huế khoảng 40km về phía Đông Bắc là làng Kế Môn, xã Điền Môn, huyện Phong Điền. Nơi đây được xem như cái nôi nghề kim hoàn Việt Nam
Cái nôi của nghề vàng
Theo sử sách xưa còn ghi lại thì làng Kế Môn được thành lập vào thế kỉ 14 dưới đời vua Trần Anh Tông, làng Kế Môn nằm bên phá Tam Giang lại có đất nông nghiệp nên cư dân ở đây sống chủ yếu bằng nghề nông và đánh bắt cá.
Năm 1789, sau khi đại phá quân Thanh vua Quang Trung đặt kinh đô tại Phú Xuân – Huế và ra lời kêu gọi người tài giúp vua quản lý đất nước. Ông Cao Đình Độ là người Thanh Hóa vào Huế xin làm nghề Kim hoàn khi đi qua sông Ô Lâu thì cả gia đình bị nạn, người dân Kế Môn thấy thế cứu giúp nên mới thoát chết. Để tưởng nhớ công ơn cứu mạng của người dân làng kế Môn nên sau khi vào cung ông Độ đã trở về và dạy nghề cho người dân ở đây.


Không những thế người làng Kế Môn còn đưa nghề truyền thống của mình vươn ra khắp thế giới nhằm quảng bá cho quê hương đất nước, hiện tại tiểu bang Texas của Mỹ có 40 cơ sở cầm vàng của người Kế Môn. Tại Huế các sản phẩm kim hoàn được trưng bày tại “Tịnh Tâm Kim Cổ”, trong các đợt Festival nghề truyền thống của Huế người làng Kế Môn đều tham dự. Làng Kế Môn có nhiều nhà thờ họ với tất cả 16 nhà thờ, đây là những họ đã có công mở làng cũng như phát triển nghề kim hoàn.
Ngày nay, dù con dân Kế Môn đã tỏa đi xa nhưng có lẽ Huế mới thật sự là cái nôi bậc nhất cho nghề kim hoàn phát triển khi còn giữ được dấu ấn lịch sử của một thời vang bóng. Ngoài khu mộ tổ và nhà thờ tổ kim hoàn vẫn còn lưu giữ ở đất Thần Kinh thì cũng chỉ có đến Huế du khách mới có cơ hội trực tiếp chứng kiến hoặc tham gia các công đoạn sản xuất của nghề kim hoàn truyền thống. Để tưởng nhớ và tôn vinh nghề kim hoàn, cụ đồ An có viết bài thơ “Tặng người thợ bạc” treo kỷ niệm tại Từ đường nhà thờ tổ.
Ngày ngày luyến tiếp khách hàng sang
Dát hàn theo thế hình long hổ
Đầu chạm làm nên cảnh phụng loan
Lắm thuở cầm cung day mũi bạc
Từng phen lên ngựa trửi ngàn vàng
Rao tài bủa vớt oai lừng lẩy
Nghề nghiệp lâu dài vững đặc san”
Nếu như trước đây để đến làng Kế Môn phải đi đò, đi xe ròng rã thì nay đường làng đã được lót đan thẳng tắp, xe hơi vào đến nhà thật tiện lợi.
Vùng đất này càng được thay da đổi thịt với sự chung tay đóng góp từ những người con xa quê. Đó là Trung tâm thương mại Điền Môn nơi được xem là chợ làng lớn nhất nước do ông Hồ Huệ – một người con làng Kế Môn – đã đứng ra quyên góp và vận động để xây dựng. Đó là con đường Nguyễn Thanh Côn do ông Nguyễn Thanh Côn (người làng Kế Môn, làm vàng bên Mỹ) gửi về gần 500 triệu đồng để đổ bê tông con đường dài 2,4 km, nơi đây cũng là con đường đặc biệt nhất tại Việt Nam vì có đến 16 nhà thờ họ khang trang, bề thế. Đó là đình làng Kế Môn, đình làng to nhất tỉnh Thừa Thiên…


Web: www.langkemon.com.vn
Lịch sử nghề kim hoàn Việt Nam
Từ 5.000 năm trước công nguyên, loài người đã tìm ra vàng và sử dụng vàng. Người Ai Cập phát hiện ra trước tiên ở thượng lưu Sông Nin, kim loại quý này đã góp mặt thêm nền văn minh cổ đại Ai Cập. Trong dòng tiến hóa của nhân loại, sắc vàng rực rỡ, choáng ngợp ấy là niềm vui, nguồn hy vọng cho biết bao nhiêu người.
I. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH & PHÁT TRIỂN CỦA CÁC LÀNG NGHỀ VÀNG BẠC VIỆT NAM:
1. Làng nghề vàng bạc Châu Khê (Hải Dương)
Cho đến bây giờ, làng nghề làm vàng bạc Châu Khê, thuộc xã Thúc Kháng, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương đã có lịch sử tồn tại trên 500 năm, bắt nguồn từ Lưu Xuân Tín, quan Thượng thư bộ Lại dưới thời vua Lê Thánh Tông (1460 – 1494) có công khởi dựng nghề đúc bạc nén của làng.
Là quan Thượng thư bộ Lại, nhưng Ông Lưu Xuân Tín rất được triều đình nhà Lê tín nhiệm, giao cho trọng trách lập xưởng đúc bạc nén tại kinh thành Thăng Long, bởi thời điểm ấy, bạc nén là đơn vị thay thế tiền tệ trong mọi hoạt động kinh tế, buôn bán, trao đổi của Xã Hội. Được triều đình dành cho đặc quyền, Lưu Xuân Tín đã ưu tiên cho người làng ông lên Thăng Long lập xưởng đúc bạc tại phường Đông Các. Dần dần, từ nghề đúc bạc, những người thợ Châu Khê đã phát triển lên nghề làm đồ trang sức vàng bạc (còn gọi là Kim Hoàn). Kể từ đó, nghề làm vàng bạc Châu Khê trở nên lừng danh không chỉ ở Hải Dương mà còn lan truyền đến Hà Nội, nơi nổi tiếng với tên phố Hàng Bạc, tập trung rất nhiều thợ làm vàng bạc vùng này.
Không phải là người đầu tiên tìm ra kỹ thuật sản xuất đồ Kim Hoàn, nhưng người Châu Khê có công lớn trong việc biết kết hợp sự khéo léo của đôi bàn tay, sự sáng tạo của trí tuệ, bí quyết riêng của bản thân với kỹ thuật làm vàng cổ truyền để cho ra đời những sản phẩm hoàn thiện nhất, tinh tuý nhất. Họ không chỉ mang đến cho người sử dụng trang sức lộng lẫy và trang trọng, mà còn góp phần duy trì làng nghề truyền thống của cha ông và sự phát triển nghề kim hoàn ở nước ta. Đặc biệt trong khoảng gần 100 năm trở lại đây, làng nghề Châu Khê đã đạt tới đỉnh cao về kỹ thuật sản xuất, chất lượng và số lượng sản phẩm vàng bạc trong cả nước.
Giỗ tổ nghề vàng Châu Khê Hải Dương
2. Làng nghề chạm bạc Đồng Xâm (Thái Bình)
Làng nghề chạm bạc Đồng Xâm thuộc xã Hồng Thái, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình từ lâu nổi tiếng khắp nơi bởi độ tinh xảo với những món hàng độc đáo. Sản phẩm của làng nghề dường như không chỉ có mặt ở nhiều tỉnh thành trong nước mà còn được khách ngoài nước biết tiếng. Nghề truyền thống này là niềm tự hào của người dân nơi đây, do thu hút một lực lượng lao động khá lớn, đến 1.500 người và nó đem lại thu nhập ổn định cho nghề làm nghề.
Tổ nghề chạm bạc là Nguyễn Kim Lâu. Ông sống vào khoảng đầu thế kỷ XVII, vốn làm nghề vàng bạc ở Châu Bảo Long (Cao Bằng ngày nay). Về sau, Ông đến vùng Kiến Xương (Thái Bình) lập ra 12 phường để truyền nghề. Các phường nghề ngày đó nay là nghề chạm bạc Đồng Xâm, nằm ở hữu ngạn sông Đồng Giang. Làng nghề chạm bạc Đồng Xâm được tổ chức sản xuất theo phường hội. Sớm nhất trong các phường nghề này là phường Phước Lộc, về sau do làm ăn ngày thêm phát đạt, thợ mỗi lúc một đông đòi hỏi phường nghề cần được mở rộng đã nảy sinh thêm nhiều phường thợ khác. Mỗi phường đều có một thợ cả đứng đầu, đó là người giỏi nghề đạt đến mức Nghệ Nhân. Dưới thợ cả còn có 6 bậc thợ khác, từ thợ học việc đến thợ phó.
Sản phẩm của Đồng Xâm bao gồm 3 loại: thờ cúng, trang sức và mỹ nghệ. Đồ thờ cúng gồm các loại đỉnh, vạc, lư hương, đĩa quả, chân đèn, ngai, mũ thờ, long lân quy phụng…Loại hàng này không nhiều, chỉ mang dạng sản xuất đơn chiếc, được khách hàng nước ngoài chú ý và coi chúng như món đồ cổ quý giá. Đồ trang sức gồm rất nhiều loại như: dây chuyền, xà tích, hoa tai, nhẫn, vòng, trâm, lắc, khánh, thánh giá… bằng bạc. Mỗi loại lại có nhiều kiểu, dáng khác nhau. Riêng nhẫn có các kiểu: gióng trúc, mặt nhật, lòng máng, mặt vuông, mặt đá, mặt ngọc, nhẫn trơn… Mặt nhẫn được khắc hoa, lá, hình trái tim, chữ nổi…
Trong suốt chặng đường hình thành và phát triển nghề nghiệp gần 400 năm, những thế hệ bạc Đồng Xâm đã tạo ra vô số sản phẩm cho xã hội
3. Làng nghề dát vàng Kiêu Kỵ (Gia Lâm – Hà Nội)
Kiêu Kỵ thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội là nơi duy nhất trong cả nước còn nghề làm vàng quì. Đây là một làng nhỏ cách trung tâm Thành Phố Hà Nội khoảng 10 km về phía Đông Bắc. Cả làng có khoảng 30 gia đình với tổng số hơn 200 người làm nghề dát vàng quì. Nghề làm vàng quì ở đây có lịch sử hình thành, phát triển trong khoảng 250 năm.
Ông Nguyễn Quý Trị đỗ tiến sĩ đời Cảnh Hưng (1740 – 1786), thuở nhỏ Ông sinh ra và lớn lên ở làng Kiêu Kỵ. Vào năm 1763, khi đang làm quan đến chức Tả Thị Lang, Hàn lâm viện trực học sĩ, ông được cử đi sứ sang Trung Quốc. Trên đường công cán ông nhận thấy ở đất nước người có nghề rất hay: nghề dập dát vàng bạc để sơn thếp vàng bạc lên câu đối, hoành phi… Ông cố gắng tìm hiểu và học cho được nghề. Khi về nước ông phổ biến cho dân làng.
Từ đó trở đi, dân làng Kiêu Kỵ sống hẳn với nghề này và đời sống trở nên khá giả hơn so với nghề nông. Đến nay người dân Kiêu Kỵ vẫn gìn giữ và lưu truyền lại nghề vàng quỳ cho con cháu.
Một trong những sản phẩm dát vàng tiêu biểu của làng Kiêu Kỵ là bức tượng Quan âm nghìn mắt nghìn tay tại chùa Bút Tháp, do nhà điêu khắc họ Trương tạc năm 1656), đến nay vẫn giữ được vẻ đẹp nhờ được thếp vàng.
4. Làng nghề dây chuyền Bình Chánh (TP.HCM)
Làng nghề Hưng Long chỉ mới xuất hiện vào khoảng những năm 1970, không có bề dày lịch sử như làng nghề Đồng Xâm – Thái Bình, Châu Khê – Hải Dương. Người đầu tiên làm thợ bạc và có công truyền nghề lại cho làng là hai thầy Tám Mây và Hai Thơm ở Tân Hóa.
Không giống như nghề dệt hay đúc đồng, chỉ đến đầu ngõ đã nghe những âm thanh nhộn nhịp, ầm ì. Làng nghề Hưng Long gồm các hộ nằm rải rác, cách xa nhau, nên không khí ở đây yên ắng, nhịp sống làng nghề cũng dường như chậm lại.
Nghề làm dây chuyền vàng ở các gia đình tại làng Hưng Long tốn rất nhiều công sức, bao gồm thủ công kết hợp máy móc tự chế. Tưởng như đơn giản nhưng việc chế tác phải qua rất nhiều công đoạn gồm cán-kéo-vấn (cuốn) – rã, (cắt) – kết (móc) – hàn – áo (màu sắc) – bào (đánh bóng) – thành phẩm, đòi hỏi người thợ phải tỉ mỉ trong từng chi tiết của sản phẩm, dù là nhỏ nhất.
II. TỔ NGHỀ – NHỮNG NGƯỜI KHAI SÁNG NGÀNH KIM HOÀN VIỆT NAM:
Ông Cao Đình Độ sinh năm 1744 tại làng Cẩm Tú, huyện Cẩm Thủy, tỉnh Thanh Hóa. Xuất thân từ một gia đình nông dân, thuở thiếu thời ông rất ham học và đựơc truyền thụ nền giáo dục của đạo Nho. Lớn lên ông làm nghề bịt đồng. Thế nhưng, niềm đam mê lớn trong ông là trở thành một người thợ Kim Hoàn xuất sắc. Ước mơ mãnh liệt ấy ngày đêm luôn thôi thúc, buộc ông lên đường “tầm sư học đạo”. Để học được nghề, ông phải cải trang người Hoa xin vào giúp việc cho một chủ tiệm vàng ở Thăng Long (Hà Nội). Bởi thời kỳ này chỉ có người Trung Hoa mới nắm được cách chế tác và độc quyền sản xuất, buôn bán vàng bạc.
Tính hiếu học và lòng trung thực của ông khiến chủ tiệm Kim Hoàn người Hoa cảm động, quý mến và truyền nghề cho ông. Mặc dù người Hoa có tiếng là giữ nghề, không truyền cho người ngoài, nhưng với tư chất thông minh, lanh lợi sẵn có, ông quan sát tìm hiểu và nắm bắt được biết quyết nghề kim hoàn của người Hoa. Với ý chí phải học cho thành tài, ông học cả cách chế tạo dụng cụ cần thiết của nghề chạm trổ vàng bạc và không từ chối bất cứ việc gì chủ sai bảo. Công sức của ông đã được đền đáp xứng đáng, tay nghề ông ngày càng thành thạo và đạt trình độ kỹ thuật tinh xảo đủ sức tranh tài với những thợ Kim Hoàn người Hoa khác tại đất Thăng Long thời bấy giờ.
Năm 1783, Ông Cao Đình Độ đưa vợ con vào làng Kế Môn, huyện Phong Điền, Thuận Hóa lập nghiệp và truyền nghề cho con. Thừa hưởng đức tính thông minh của cha, cong trai ông – Cao Đình Hương, tiếp thu nghề Kim Hoàn một cách nhanh chóng và trở thành một nghệ nhân thành thục trong nghề. Tại Thuận Hóa, Ông Cao Đình Độ có thu nhận để tử, truyền nghề cho họ. Làng Kế Môn trở thành làng nghề Kim Hoàn từ đó.
Dưới thời vua Quang Trung, danh tiếng Ông Cao Đình Bộ được lan truyền đến triều đình. Năm 1790, vua Quang Trung triệu hai cha con ông cùng một số thợ bạc ở làng Kế Môn vào triều để lập cơ vệ Ngân Tượng, nơi chuyên nghiên cứu nghệ thuật điêu khắc, trạm trổ vàng bạc và đồ trang sức cung điện. Trước công đức và những đóng góp lớn lao đó, ông được triều đình phong chức Lãnh Binh, cùng gia đình sống tại làng Cao Hậu, huyện Hương Trà.
Đến khi Nguyễn Ánh lập nên triều Nguyễn, lấy niên hiệu Gia Long vào năm 1802, tất cả mọi thành tựu văn hóa dưới triều Quang Trung điều bị phá hủy, chỉ duy nhất ngành Ngân Tượng được bảo tồn. Hai cha con ông Cao Đình Độ và Cao Đình Hương cũng như nhóm thợ làng Kế Môn vẫn được vua Gia Long trọng dụng, cấp bổng lộc và giữ nguyên tước cũ để tiếp tục nghề Kim Hoàn trong cung điện.
Năm 1810, Ông Cao Đình Độ qua đời, hưởng thọ 66 tuổi. Mặc dù còn được kế tục sự nghiệp của cha trong triều với chức quan Lãnh Binh, nhưng bằng cách nhìn nhạy bén của người trong nghề, Cao Đình Hương nhìn thấy hoài bão của cha mình sẽ bị mai một theo thời gian, không những thế, nghề Kim Hoàn sẽ bị thất truyền nếu ông chỉ quanh quẩn phục vụ trong cung vua. Cao Đình Hương quyết định từ quan về nhà để tìm người nối nghiệp gia đình. Nghề Kim Hoàn ở miền Trung từ đó mà được nhân rộng.
Cảm phục tài nghệ và danh tiếng Cao Đình Hương, quan Thượng thư bộ Lại lúc bấy giờ là Trần Minh, cùng vợ là Huỳnh Thị Ngoc (dưới thời Gia Long) mời ông về dinh phủ dạy nghề Kim Hoàn cho ba người con trai: Trần Hòa, Trần Điện, Trần Điền và ba người cháu: Huỳnh Quang, Huỳnh Bảo, Huỳnh Nhật. Ròng rã súôt 11 năm truyền dạy cho các học trò, năm 1821, Ông Cao Đình Hương qua đời. Trước khi mất, tâm huyết sau cùng của ông là mong muốn học trò của mình đem nghề Kim Hoàn truyền bá rộng rãi trong dân gian.
Theo di chúc của thầy, ba anh em Trần Hòa, Trần Điện, Trần Điền ngược ra Thăng Long (Hà Nội) mở lò thu nhận đệ tử. Riêng anh em họ Huỳnh theo dòng người lập nghiệp xuôi vào phương Nam, đến Phan Thiết thì dừng chân, vừa thu nhận đệ tử truyền nghề, vừa để tưởng nhớ một người anh em của mình đã qua đời tại đây. Nghề Kim Hoàn ở Phan Thiết được khai sinh từ đó.
Ở miền Nam, nghề Kim Hoàn lúc ấy vẫn chưa được phổ biến rộng rãi. Theo ước nguyện của thầy, từ Thăng Long, anh em họ Trần bắt đầu cuộc hành trình xuôi vào Phương Nam. “Đất lành chim đậu”, đểm dừng chân của họ là Gia Định – Chợ Lớn, nơi có thương cảng sầm uất, hội tụ thương hồ từ các tỉnh lân cận, kể từ Cao Miên (Campuchia), Xiêm La (Thái Lan), đến buôn bán náo nhiệt. Ba ông chọn địa điểm các Chợ Lớn khoảng một dặm (cảng Bình Đông ngày nay) mở lò thợ bạc tại đây lại có điều kiện phát triển rộng khắp.
Sau khi truyền nghề cho 36 lò thợ bạc ở Chợ Lớn, anh em họ Trần lại tiếp tục hành trình đến các tỉnh miền Tây, ngược qua Campuchia, Thái Lan…rồi qua đời ở đâu không ai biết. Nếu như tiền tổ họ Cao có công khai sáng nghề Kim Hoàn, thì họ Trần, Huỳnh chính là những người có công phổ biến nghề Kim Hoàn trên khắp đất nước, suốt từ Bắc vào Nam. Họ được người trong nghề tôn vinh là tổ sư đời thứ Hai của ngành Kim Hoàn Việt Nam.
Công lao của các tổ sư Kim Hoàn không chỉ được người đời sau luôn ghi nhớ, mà còn nhận được nhiều sắc phong của triều đình, đặc biệt dưới triều Nguyễn. Hiện nay, tại nhà thờ tổ nghề Kim Hoàn ở Huế và Lệ Châu hội quán (Thành Phố Hồ Chí Minh) còn lưu giữ nhiều bản sắc phong của triều đình, đặc biệt dưới triều Nguyễn. Hiện nay, tại nhà thờ tổ nghề Kim Hoàn ở Huế và Lệ Châu hội quán (Thành Phố Hồ Chín Minh) còn lưu giữ nhiều bản sắc phong của các vua nhà Nguyễn. Đó là hàm cấp bậc “Tiến sĩ khai hóa Kim Ngân” với phẩm tước đại triều “Dực Bảo Trung Hưng”, chức Lãnh Binh của vua Gia Long cho ông Cao Đình Độ. Sau khi mất ông còn được truy phong thêm tước hiệu “Đệ Nhất tổ sư”. Đến thời vua Minh Mạng, hai cho con cao Đình Độ, Cao Đình Hương được sắc phong “Dực bảo Trung Hưng Linh Phò Bổn Xứ – khai hóa kim ngân Thế Tổ Cao Đình Độ tọa thần vị – Cao Đình Hương linh thần vị”, phong tước hiệu “Đệ nhị tổ sư” cho Ông Cao Đình Hương, được ban đất xây lăng như các quan đại thần. Đời vua Khải Định năm thứ 9 và Bảo Đại năm thứ 13, hai ông được sắc phong “Dực bảo Trung Hưng Linh Phò chi thần” cho người có công khai sáng ngành Kim Hoàn Việt Nam.
Lăng mộ hai vị Tổ sư đời thứ nhất đều toạ lạc tại phường Trường An về phía Nam thành phố Huế, trong đó lăng mộ đệ Nhất Tổ sư Cao Đình Độ xây dựng năm 1810, lăng mộ đệ Nhị Tổ sư Cao Đình Hương xây dựng năm 1821, theo kiến trúc văn hóa đặc trưng của triều Nguyễn. Đền thờ hai ông được đặt tại phường Phú Cát (Huế). Cả khu mộ và nhà thờ tổ nghề Kim Hoàn đã được Bộ Văn Hóa Thông tin cấp bằng Di tích Lịch sử Văn hóa.
Để tưởng nhớ công lao to lớn của hai vị Tổ nghiệp, hằng năm, các thợ Kim Hoàn miền Trung (Huế) tổ chức lễ giỗ tổ Ông Cao Đình Độ vào ngày 27-2 (âm lịch). Tại làng Định Công (Hà Nội), giỗ tổ sư họ Trần, Phan Thiết giỗ tổ sư họ Huỳnh.
Qua những biến chuyển của thời đại, nghề Kim Hoàn không bị mai một mà còn được lưu giữ, truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Dù ngày nay, vàng bạc được sản xuất chủ yếu trên dây chuyền hiện đại, nhưng tổ thờ vẫn được coi trọng và tôn thờ.
Đền thờ tổ nghề Kim Hoàn
III. LỆ CHÂU HỘI QUÁN VÀ NGÀY GIỖ TỔ KIM HOÀN:
Theo ước lệ của từng vùng, ngày giỗ tổ Kim Hoàn ở Việt Nam có khác, nhưng điều được tổ chức vào tháng 2 âm lịch hằng năm trong không khí trang nghiêm, tưởng nhớ các bậc tiền nhân đã có công khai sáng nghề kim hoàn. Tại Thành Phố Hồ Chí Minh, lễ giỗ theo nghi tức truyền thống, lớn và quy mô nhất diễn ra ở Lệ Châu hội quán – di tích lịch sử cấp quốc gia đã được Bộ văn hóa Thông in công nhận vào năm 1998.
Xuất xứ tên gọi Lệ Châu: Nhà thờ tổ kim hoàn – Lệ Châu hội quán toạ lạc tại số 586 Trần Hưng Đạo, Phường 14, Quận 5, cách trung tâm Thành Phố Hồ Chí Minh khoảng 6Km. Lệ Châu hội quán tuy không lớn về khuôn viên, không đặc sắc về quy mô kiến trúc nhưng là một di tích quan trọng của nghề Kim Hoàn ở TP.Hồ Chí Minh.
Theo lời kể lại, từ trước năm 1892, thợ kim hoàn tại khu vực Chợ lớn thường tập hợp ở các lò chế tác nữ trang, vì lúc này các tiệm vàng chuyên bán nữ trang chưa có. Càng ngày nghề thợ bạc càng phát triển nên nhiều người có sáng kiến lập một ngôi nhà tổ nghiệp kim hoàn, để con cháu đời sau biết đến nghề của ông cha mình.
Vào năm 1892, nhà thờ tổ được tiến hành xây cất qua nhiều lần sửa chữa, tu bổ, đến năm 1896 mới hoàn thành và tạm gọi là: “Nhà thờ tổ kim hoàn”. Cho đến đợt trùng tu vào năm 1934, ngôi đền được dựng bằng gỗ lim, mái ngói móc lợp theo kiểu âm dương. Phía trước đền có bộ cửa sắt bao bọc, trên vòm cửa có bốn chữ: “Lệ Châu Hội Quán” được đúc bằng đồng. Dọc hai bên cửa sắt có câu dối:
“Lệ thủy kim sanh cơ quốc thái
Châu đê ngân xuất nghiệp dân an”
(Sông Lệ sinh vàng nên quốc thái
Bờ Câu ra bạc nghiệp dân an)
Nguồn gốc tên Lệ Châu được giải thích bằng hai cách. Sở dĩ đền Lệ Châu được đặt tên như thế xuất phát từ câu: “Kim Trần Lệ Thủy, Ngân Xuất Châu Đê” (Vàng chìm sông lệ, bạc xuất bờ châu). Hai chữ Lệ Châu có nghĩa là vàng bạc và ý này được lấy để đặt tên cho ngôi đình tổ thợ bạc.
Ngoài ra truyền thuyết của ngành thợ kim hoàn, đền thờ Lệ Châu do các thợ bạc Chợ Lớn lập nên để nhớ ơn ba anh em họ Trần ở làng Đinh Công (Hà Nội) vào vùng Sài Gòn – Chợ Lớn phổ biến nghề thợ kim hoàn. Sau một thời gian, ba ông tiếp tục qua Nam Vang (Campuchia), Lào, Thái Lan truyền nghề và không trở về nữa. Nhớ ơn tổ nghề, những người thợ bạc đã cùng nhau lập nhà thờ, lấy tên Lệ Châu, còn có nghĩa là nước mắt rơi, nói lên nỗi mất mát, thương nhớ của học trò đối với thầy.
Chính vì những lý do trên, những người trong ngành kim hoàn đã thống nhất đổi tên ngôi đền là Lệ Châu. Lệ Châu là nơi quy tụ các tay nghề thợ bạc cùng nhau đoàn kết để phát huy nghề truyền thống, nên được gọi Lệ Châu hội sở, sau đổi thành Lệ Châu hội quán cho đến nay.
Lệ Châu Hội Quán được xây dựng theo kết cấu ba gian dọc, trước có sân rộng khoảng 400m2. Bên trong trang trí đơn giản và chỉ có ba khám thờ. Khám ở giữa thờ một bức sơn son thiếp vàng với hai chữ đại tự rất đẹp “Tổ Sư”. Khám thờ bên phải nhỏ hơn với hai chữ “Tiền Hiền”, bên trái là hai chữ “Hậu Hiền”. Từ ngoài vào trong có 9 bức hoành phi, chủ đề nói lòng nhớ ơn công đức tổ nghề như “ Bản thủy sơn tiên”, “Nghệ truyền nguyên phái”… Riêng 5 câu đối sơn son thiếp vàng được chạm khắc tinh sảo ở hai bàng cột cũng không nằm ngoài nội dung ấy . Tất cả các bức hoành phi, câu đối, khám thờ sơn son thiếp vàng còn rực rỡ, rõ nét, chạm trổ công phu, chứng tỏ độ vàng và tuổi vàng cao
Chính điện đặt chuông và trống đối diện hai bên. Ngoài ra còn một số bàn và giá ảnh (bình phong) chạm khắc rất tinh xảo, mô tả cảnh sơn thủy của người Hoa dâng tặng Lệ Châu hội quán.
Đáng chú ý hơn cả ở Lệ Châu Hội quán là bốn tấm bia nằm đăng đối nhau hai bên vách chính điện. Trên các tấm bia ghi tên người, tên hiệu, tên địa phương của những người làm nghề thợ bạc và số tiền đóng góp cho hội quán ở khắp vùng đất lục tỉnh xưa kia. Lệ Châu hội quán đã trải qua nhiều thăng trầm của biến cố lịch sử. Tuy nhiên, bắt đầu từ lúc mới gầy dựng qua các bước tiến của nghề nghiệp, của sự đoàn kết giữa chủ và thợ mà Lệ Châu hội quán luôn được tu bổ, bảo quản trọn vẹn như ngày nay.
Nếu trước đây chỉ có 3 khám thờ, từ năm 1998, Lệ Châu hội quán còn có sắc phong thờ Đệ Nhất tổ sư Cao Đình Độ, Đệ nhị tổ sư Cao Đình Hương, các vị tổ đời thứ hai là ba anh em họ Huỳnh: Huỳnh Quang, Huỳnh Bảo, Huỳnh Nhật. Ngày chánh giỗ tổ sư kim hoàn lấy theo ngày mất của nhị tổ sư cao Đình Hương vào ngày 7 – 2 (âm lịch) hằng năm.
Hằng năm, vào các ngày 6, 7, 8 – 2 âm lịch được xem là ngày hội của những người sản xuất, kinh doanh vàng bạc. Lễ giỗ tổ kim hoàn được tổ chức rất qui mô, quy tụ hàng ngàn người trong ngành thợ kim hoàn, không chỉ riêng Thành Phố Hồ Chí Minh mà từ các tỉnh Nam Bộ cũng về dự, cúng bái những tổ sư khai sáng ngành kim hoàn. Đồng thời, đây còn là dịp để các đồng nghiệp gặp gỡ, trao đổi kinh nghiệm, giúp đỡ nhau trong nghề nghiệp, chia sẽ những chuyện buồn vui trong cuộc sống…
Những ngày này, Lệ Châu hội quán được trang hoàng rực rỡ, nến và hương được thắp từ trong đến ngoài, tạo cho ngày giỗ hết sức trang nghiêm. Mặc dù mùng 7 mới là chánh lễ, nhưng việc cúng tế đã được chuẩn bị trước đó vài ngày. Không phải ai cũng lo việc cúng tế, mà phải là những người đã qua lớp Tổng lý – chuêyn trách phụ cúng kiếng, nhang đèn vào các dịp lễ trong năm: giỗ tổ, Thanh minh, Vu lan. Mỗi tổng lý chỉ lo việc cúng tế trong một năm.
Mở màn giỗ tổ là tối mùng 6 – 2 với nghi thức cúng cầu quốc thái dân an, tuyên đọc sắc phong tổ sư thợ bạc Việt Nam của các vị vua Triều Nguyễn cho người tham dự, đặc biệt là người trong nghề hiểu biết xuất xứ của tổ nghề. Ngày chánh tế mùng 7 – 2, cúng ba “Viên” theo nghi thức lễ giỗ truyền thống. Viên thứ nhất cúng Chấp minh vào 8 giờ sáng để rước tổ sư. Viên thứ hai cúng Chánh tế tổ sư từ 22 giờ đến 24 giờ. Viên thứ ba diễn ra vào 16 giờ ngày 8 – 2, tế nghĩa từ – những người có công xây dựng Lệ Châu hội quán.
Viên là cách gọi về mỗi phần lễ. Viên được tiến hành theo nghi thức cổ truyền, dâng phẩm vật như trà, bánh, trái cây, heo quay…Trong các viên, chánh hoặc phó hội trưởng Lệ Châu hội quán đọc văn tế đọc trong ngày giỗ tổ do soạn giả cải lương Viễn Câu sáng tác, thay vì xưa kia chỉ xây chầu hát bội.
Những thành viên ban quản trị đền thờ trong bộ lễ phục áo dài khăn đóng, đứng trước Bài Vị tổ sư vái lạy. Bên trong đền, những người thợ bạc thắp hương và dâng mâm hoa quả xếp hình long, lân, quy, phụng với tấm lòng thành kính, biết ơn người đã có công truyền dạy nghề cho con chấu, giúp ích cho xã hội và mang lại cuộc sống ấm no cho gia đình họ.
Nếu xưa kia, Lệ Châu Hội Quán là nơi hội họp quan trọng của những người thợ bạc vùng đất lục tỉnh thì ngày nay, Lệ Châu hội quán đã trở thành nơi để thợ kim hoàn thể hiện lòng biết ơn đối với tổ nghề. Chính nơi đây họ còn tìm thấy một sức mạnh tinh thần để có thêm niềm tin đối với bản thân cũng như nghề nghiệp. Đền thờ tổ nghề kim hoàn – Lệ Châu hội quán đã được Bộ Văn Hóa Thông Tin cấp bằng công nhận Di Tích Lịch Sử Văn Hóa vào năm 1998.
Phố Hàng Bạc – Di sản phố cổ ở Hà Nội
Một góc phố Hàng Bạc Phố cổ Hà Nội nổi tiếng với những ngôi nhà chồng diêm, nhà hình ống, những mái ngói cong, lô xô mềm mại tạo ra nét duyên dáng riêng làm cho Hà Nội có nét đẹp riêng không hề giống với các thành phố khác trên thế giới. Phố Hàng Bạc là một trong những con phố cổ ở Hà Nội – một di sản của Hà Nội mà chúng ta cần gìn giữ
Theo nghiên cứu của các chuyên gia Sử học thì trong các sách chính sử đều không thấy chép niên đại cụ thể sự ra đời của phố Hàng Bạc, nhưng căn cứ theo nội dung của tấm bia đặt tại đình Dũng Hãn (42 Hàng Bạc) có thể xác định được phố Hàng Bạc ra đời vào thời Lê hoặc có thể sớm hơn một chút.
Vào thời Lê, phố Hàng Bạc thuộc về phường Đông Các, huyện Thọ Xương. thời Nguyễn, phố Hàng Bạc thuộc thôn Dũng Thọ, tổng Hữu Túc sau đổi thành tổng Đông Thọ, huyện Thọ Xương, phủ Hoài Đức. Ngày nay phố Hàng Bạc dài 280m, đi từ phố Hàng Mắm đến ngã tư tiếp giáp với Hàng Đào (trước kia là phố chuyên nghề nhuộm chuội và bán tơ lụa), Hàng Ngang (nơi sinh sống và buôn bán của các Hoa kiều gốc Quảng Đông) và phố Hàng Bồ (nơi tập trung buôn bán các thứ bồ đan bằng tre, nứa), thuộc phường Hàng Bạc, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Dưới thời Pháp, phố có tên là Rue des Changeurs tức là Phố của những người đổi tiền.
Tại phố Hàng Bạc, ngoài những người dân gốc, vốn đã từng sinh sống từ trước còn có cư dân của ba làng khác di cư đến. Đó là dân của các làng Châu Khê (Hưng Yên), Định Công Thượng (Thanh Trì, Hà Nội) và làng Đồng Sâm nổi tiếng với nghề chạm bạc, người Định Công chuyên về đồ đậu, còn người Châu Khê lại làm nghề đúc bạc đổi tiền.
Để phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày cho vua quan, Nho sỹ và để xây dựng nhà cửa, cung điện, những thương nhân, thợ thủ công… từ các địa phương đến kinh thành ngày một nhiều. Phương thức di dân phổ biến là cả một tập thể thôn xóm theo những người họ hàng thuộc các vị tổ nghề cùng nhau lên kinh đô, rồi lại cùng nhau sống quây quần tại một địa điểm, một phường nhất định. Hình thức di cư này tạo nên các phường chuyên nghề và chuyên mặt hàng của đất Kinh kỳ Thăng Long 36 phố phường. Mỗi phường sản xuất và bày bán một loại hàng cố định. Đây chính là nét độc đáo của khu phố cổ Hà Nội.
Những người dân sống ở khu phố cổ Hà Nội vẫn luôn có sự liên hệ với các làng quê gốc của mình. Họ vẫn có nhà và ruộng đất ở quê, và họ vẫn trở về quê vào các dịp lễ Tết vừa để hưởng quyền lợi, vừa thực thi nghĩa vụ với làng. Họ luôn gắn bó với nhau hướng về làng quê gốc trong việc xây dựng đền thờ vọng thành hoàng làng mình. Như vậy, những người dân sống ở khu phố cổ Hà Nội tồn tại trong nhiều mối quan hệ, vừa là thành viên của thôn, phường sở tại, vừa là thành viên của làng quê gốc.
Khi lên phố Hàng Bạc sinh sống, những người dân làng Châu Khê đã dựng 2 ngôi đình. Đó là đình Trương Thị ở số nhà 50 và đình Kim Ngân ở số nhà 42. Đến cuối thế kỷ XIX, khi dân làng Châu Khê lên lập nghiệp ngày càng đông, 2 ngôi đình không đủ chỗ cho dân làng hội họp và tế lễ họ đã mua Nội Miếu ở thôn Hài Tượng (nay ở số 30 phố Hàng Giầy) để làm đền thờ vọng về quê, gọi là Châu Khê vọng sợ. Hàng năm cứ đến ngày 19 tháng Giêng, những người dân Châu Khê phố Hàng Bạc lại trở về làng Châu Khê, xã Thúc kháng, huyện Bình giang, tỉnh Hải dương để dự hội quê mình.
Dân làng Định Công thì lập đền thờ 3 ông tổ nghề Kim Hoàn là Trần Điền, Trần Điện và Trần Hoà ở đầu phố Hàng Bồ. Cứ vào ngày 12 tháng 2 âm lịch hàng năm, dân làng Định Công lại mở hội, tưởng nhứ công lao ba người thầy của nghề kim hoàn. Những người dân làng Đông Sâm do lên sinh sống ở phố Hàng Bạc ít nên họ chưa có điều kiện lập đình, miếu ở đây.
Như tên gọi của nó, phố Hàng Bạc là nơi sinh sống của những người làm nghề đổi vàng bạc. Quang cảnh cung của phố trước đây là: “Những người ngồi xếp bằng tròn sau quầy hàng của mình, trước mặt là đống tiền và một chiếc tráp nhỏ sơn son, dùng làm hòm đựng tiền của họ”. Đổi bạc là một trong nghề quan trọng ở Kẻ Chợ.
Phố Hàng Bạc còn nổi tiếng với kiến trúc đặc sắc là nhà hình ống và nhà chồng diêm. Nhà hình ống với bề dài, bề rộng có hạn, cha ông ta đã sáng tạo nên không gian ở, thờ phụng, nghỉ ngơi, sản xuất và buôn bán hết sức hợp lý và khoa học, vẫn có cả khoảng không để đưa thiên nhiên vào trong nhà. Nhà chồng diêm là loại nhà hai tầng không hoàn toàn với gác xép có cửa giả hoặc cửa cỡ nhỏ, hoặc cửa tròn mở ra phố. Loại nhà này ngoài mái ngói nghiêng xuống mặt phố còn có mái tranh vẩy thêm ra hè. Kiến trúc trang trí đơn giản, hai đầu hồi xây vài ba bậc giật cấp, có đường chỉ hay đường triện đơn giản. Bờ nóc mái hơi cong lên ở hai đầu và gờ trang trí. Kết thúc ở hai đầu góc mái là các đầu xây gạch trang trí bằng gờ chỉ…
Ngoài nhà ở, giá trị kiến trúc của phố Hàng Bạc còn thể hiện ở các di tích lịch sử như đình, đền còn lại cho đến ngày nay. Đó là các đình Dũng Hãn, Dũng Thọ, Kim Ngân và Trương Thị.
Văn bia Trùng tu đền thần giáp Dũng Hãn niên hiệu Cảnh Hưng thứ 44, cho biết đình Dũng Hãn được xây dựng gần cuối thế kỷ XVIII, trùng tu vào năm Thành Thái thứ 3 (1891). Đình có quy mô rộng rãi, chính giữa là nơi thờ Linh Lang đại vương, bên ngoài có miếu thờ thần nữ.
Đền Dũng Thọ nằm ở góc giữa phố Hàng Bạc và Mã Mây, Cửa ngôi đền rộng khoảng 2,5m, cao 2m, xây theo lối chồng diêm 8 mái, cong ở hai bên. Trên đầu mái có đắp nổi hai đầu thuỷ quái Macara chầu vào giữa. mái lợp bằng ngói ống. Trên cổng có đắp 3 chữ Hán “Dũng Thọ từ”.
Đình Trương Thị và Kim Ngân cùng thờ một vị thần là Hoàng đế Hiền Viên – ông tổ bách nghệ trong huyền thoại Trung Quốc. Hai đình này đều được xây dựng vào thế kỷ XIX.
Phố Hàng Bạc ngày nay. Ảnh: Internet
Theo bản đồ Hà Nội thời Nguyễn, Hàng bạc nằm trên 1 trong 2 trục phố chính chạy thẳng từ Cửa Đông ra đến bờ sông Hồng. Thế kỷ XVII- XVIII, đường phố ở đây khá rộng, khoảng “10 hoặc 12 con ngựa có thể đi hàng ngang”. Phố chạy thẳng, “một nửa đường là đất để chuyên dành cho lối đi của súc vật và chở hàng hoá, nửa kia được lát gạch dùng làm lề đường cho khách bộ hành”. Cùng với Hàng Đào, Hàng Ngang, Hàng Buồm, Lãn Ông, Hàng Bạc được xếp vào những phố to đẹp trong khu phố cổ Hà Nội, nơi có nhiều nhà ngói, nhiều cửa hiệu to rộng, đường phố sạch sẽ và được lát đá. Đến thế kỷ XIX, Thăng Long không còn giữ vai trò kinh đô của cả nước, nên tình hình đường xã cũng bị thu hẹp do không được quan tâm, sang sửa.
Là một trong những con phố cổ lâu đời nhất của Hà Nội với những công trình kiến trúc đặc sắc và nét văn hoá đặc trưng như vậy nhưng hiện nay, phố Hàng Bạc cũng đang là một trong những di sản bị xuống cấp trầm trọng, các công trình kiến trúc cổ bị lấn chiếm, người dân cũng đang cho xây dựng nhà cửa bừa bãi không theo quy hoạch, nên chất “cổ” của con phố đang mất dần. Đây là điều đáng báo động đối với các di sản của Thăng Long – Hà Nội. Vì nếu để mất đi khu phố cổ thì dù Hồ Gươm có đẹp đến đâu, Hà Nội có được phát triển khang trang hiện đại đến đâu cũng sẽ mất đi sự hấp dẫn riêng có của nó và giống như bao thành phố khác trên thế giới.